ClockThứ Bảy, 24/09/2016 13:26

Bác sĩ Đặng Thùy Trâm và những người lính tàu không số

TTH - Cuốn “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” nổi tiếng trong nước và được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Phim “Đừng đốt” của Đạo diễn - Nghệ sĩ Nhân dân Đặng Nhật Minh dựa trên Nhật ký Đặng Thùy Trâm làm xúc động lòng người trong và ngoài nước. Nhưng một điều có lẽ nhiều người chưa biết là bác sĩ Đặng Thùy Trâm đã từng chữa bệnh cho các chiến sĩ tàu không số ở cái trạm xá nhỏ bé của mình ở Quảng Ngãi. Đọc sách “Lịch sử đường Hồ Chí Minh trên biển”, tôi rất xúc động về cuộc gặp gỡ cơ duyên này.

Bìa cuốn nhật ký Đặng Thùy Trâm

Câu chuyện bắt đầu từ nửa ngày 27/2/1968, con tàu C43B rời cảng A3 (Hải Khẩu, Trung Quốc) gồm 17 cán bộ, chiến sĩ do thuyền trưởng Hồ Đức Thắng cùng Trần Ngọc Tuấn, người Quảng Nam, chính trị viên; hai thuyền phó Nguyễn Văn Thơm, Nguyễn Văn Đức, 3 cơ điện là Nguyễn Đăng Nam, Nguyễn Trọng Tài, Nguyễn Thành Thoảng, 2 báo vụ Phan Đình Thọ, Huỳnh Ngọc Thoa và 8 thủy thủ, y tá: Võ Như Tòng, Nguyễn Xuân Nghinh, Trần Hương Hoa, Lê Văn Quý, Vũ Văn Hoành, Vũ Văn Ruệ, Phạm Văn Rai (Kiểm), Lưu Công Hào. Tàu xuất bến chở 37 tấn vũ khí vô bến Ba Làng An, Quảng Ngãi. Trước đó, ngày 14/3/1967, trong chuyến chở hàng vào Sa Kỳ (Quảng Ngãi) gặp địch, đội tàu C43B đã chiến đấu anh dũng và buộc phải hủy tàu để giữ bí mật, sau đó họ theo đường Trường Sơn về đơn vị. Đội được nhận tàu mới, cũng mang tên C43B, trở lại Quảng Ngãi.

Thuyền trưởng Thắng kể, tàu đang chạy đều bỗng máy ậm ạch rồi tắt hẳn. Có điềm gở gì chăng? anh xuống khoang máy cùng 3 thợ máy xoay trần sửa chữa. 30 phút sau máy mới nổ lại. Khoảng 14 giờ ngày 29/2, một máy bay địch nghi ngờ đến lượn mấy vòng phía trên rồi bay đi. Anh em nghĩ chắc là chúng chưa phát hiện ra ta. Ngờ đâu, đêm đến, tàu cách bờ 12 hải lý thì gặp 6 tàu địch đang hình thành thế bao vây. Ngay lập tức, chúng nổ súng, bắn tới tấp vào tàu ta. Trên không, mấy chiếc trực thăng quần đảo, bắn rốc-két xuống tàu C43B. Thuyền trưởng Thắng ra lệnh cho anh em tập trung hỏa lực chiến đấu. Suốt mấy tiếng đồng hồ đánh nhau với địch đông gấp nhiều lần, tàu ta bị đạn địch găm thủng nhiều chỗ. Chiến sĩ hàng hải Vũ Văn Ruệ và y tá Võ Nho Tòng hy sinh, nhiều đồng chí bị thương nặng.

Trước tình thế gay go, nếu tiếp tục đánh trả sẽ có thêm nhiều đồng chí hy sinh và địch có khả năng cướp tàu. Chi ủy quyết định cho mọi người khẩn trương bơi lên bờ và hủy tàu. Thuyền trưởng Hồ Đức Thắng phân công chính trị viên Tuấn đưa thương binh, liệt sĩ vào bờ, hai thuyền phó Thơm và Đức cùng thuyền trưởng ở lại hủy tàu, hủy tài liệu. Ba đồng chí hy sinh được chuyển vào bờ. Còn 14 người thì 12 người là thương binh. Các anh được chị Răng, chị Ngân, chị Yến cùng với du kích và bà con cô bác xã Phổ Thiện cấp cứu, bảo vệ, đưa vào hầm bí mật từng gia đình che giấu, tránh sự truy lùng gắt gao của địch, vì chúng biết các chiến sĩ ta bơi vào bờ chưa đi xa. Hơn một tuần sau, du kích địa phương vừa chiến đấu vừa nghi binh địch, đưa 14 chiến sĩ tàu không số C43B bị thương vượt Quốc lộ 1A chuyển lên vùng căn cứ Ba Tơ. Các thương binh được anh em du kích cáng lên bệnh xá, nhưng hai đêm liền đều gặp phục kích phải quay lại, đêm thứ ba mới thoát được. Hơn một ngày rưỡi xuyên rừng, vào chiều tối hôm sau các anh mới được đưa vào điều trị tại trạm xá dân y huyện Đức Phổ, ở giữa khu rừng thưa, cây cối loang lổ, khô héo vì địch rải chất độc hóa học.

Đây chính là bệnh xá của bác sĩ Đặng Thùy Trâm. Nhìn thấy 14 người chân thấp chân cao đến bệnh viện, Đặng Thùy Trâm đoán ra ngay đây là các chiến sĩ trên các con tàu bí mật trên biển. Khám thấy anh em vết thương nặng và kiệt sức, Đặng Thùy Trâm đã quyết định các thủy thủ phải chữa trị và nghỉ dưỡng ở bệnh xá một tháng. Ở đây thuốc men, dụng cụ cấp cứu thiếu thốn, ăn uống chủ yếu bằng củ mì (sắn). Mấy ngày sau, ba người của trạm xá phải đi ba bốn ngày đường xuống đồng bằng nhờ cơ sở mua gạo và thuốc mang về cứu chữa cho thương binh tàu không số.

Thuyền trưởng tàu C43B Hồ Đức Thắng kể với nhà văn Nguyên Ngọc trong sách “Con đường mòn trên Biển Đông”. Riêng tôi, thật ra đến lúc đó, có dịp trôi dạt vô đó, tôi mới hiểu. Thì ra giữa chiến tranh, một vùng đất quá ác liệt... Nhưng một cái bệnh xá huyện thì không thể lánh đi đâu được cả, đơn giản chỉ vì nó là một cái bệnh xá. Nó phải có mặt ở đó bất cứ lúc nào, trụ bám ở đó, vì thương binh, vì những người dân bị thương, cả bị bệnh nữa, bất cứ lúc nào. Đức Phổ lúc bấy giờ là một trong những huyện ác liệt nhất ở chiến trường Khu 5. Sư đoàn không vận số 1 Mỹ quần nát ở đó, rồi lữ 196 Mỹ, sư dù 101 Mỹ, có thời gian cả bọn sư 25 Anh Cả Đỏ Mỹ cũng ra đó. Rồi Rồng Xanh, Bạch Mã Nam Triều Tiên, rồi sư 2, sư 22, sư 23 ngụy, thủy quân lục chiến, quân dù ngụy chẳng thằng nào thiếu mặt ở đấy. B52 dầm nát một vùng bán sơn địa ngang dọc chỉ vài chục cây số...Thế mà trên cái vùng đất ghê gớm, suốt hàng chục năm trời vẫn trụ bám một cái bệnh xá huyện nhỏ nhoi, gan lì, bất khuất. Chỉ huy bệnh xá ấy là một cô gái, một cô bác sĩ trẻ người Hà Nội. Năm ấy, chị chưa đến 30...

Anh Lưu Công Hào kể: “Những ngày ở trạm xá chị Thùy Trâm viết lưu bút cho người lính trẻ là tôi mà chị coi như đứa em trai. Chị Trâm viết trong ngày 28/3/1968. Bức thư này hiện được lưu giữ tại Bảo tàng Hải Quân Việt Nam:

                                                28/3/68

Hào, em thương quý.

Gặp em chị như thấy lại cả quê hương trong đôi mắt nhìn thắm thiết, trong giọng nói quen thân, trong tiếng cười ấm áp của em. Muốn nói cho em nghe tất cả từ nỗi nhớ, niềm thương của một người con xa quê, đến sự sung sướng tự hào vì được gặp em trong cuộc chiến đấu vĩ đại này và những suy nghĩ về riêng tư của chị nữa... Nhưng có lẽ có dịp nào đó chị sẽ viết thư nói cho em nghe, nếu như ra đi em vẫn còn nhớ, còn thương người chị MB (miền Bắc) này. Bây giờ thời gian ngắn ngủi chị chẳng biết nói gì cho đủ, gửi vào trang sổ nhỏ này tình thương đậm đà như màu đất quê hương của chị. Hãy gìn giữ lấy nó nghe em. Mong ước một ngày không xa nữa, chị sẽ đến Đồ Sơn nghỉ mát và... 1 buổi chiều nào đó trên bãi biển Đồ Sơn chị lại được gặp em, được nắm tay em (cánh tay đau đã làm em mất ngủ mấy đêm ở trạm này lúc ấy đã lành từ lâu rồi em nhỉ).

Nhớ gửi thư nhiều cho chị nghe em.

          Thương nhớ em mãi

            Đặng Thùy Trâm

Dưới thư, chị Trâm viết thêm: “Nhờ Ban Dân y tỉnh Quảng Ngãi chuyển hộ”. Có lẽ chị Trâm đề phòng trường hợp đột xuất mình không thể trực tiếp gặp được thủy thủ Lưu Công Hào, nên phải ghi như thế để lá thư đến được nơi cần đến.

Sau một tháng điều trị, vết thương dần khỏi, anh em C43B được lệnh gấp rút lên đường vượt Trường Sơn ra Bắc về đơn vị để đi những chuyến tàu mới. Trước khi anh em lên đường, chị Thùy Trâm và anh em trong trạm xá Đức Phổ đã khâu những mảnh dù của Mỹ thành ba lô, túi xách, ruột tượng và chuẩn bị áo quần, gạo, muối, thuốc men cho các thủy thủ đi đường. Ngày chia tay, chị Trâm đã nắn nót ghi vào cuốn sổ nhỏ của Lưu Công Hào; ngoài những dòng lưu bút là địa chỉ của người em gái Đặng Phương Trâm, địa chỉ gia đình để anh lính trẻ khi về đến Hà Nội sẽ ghé thăm...

Sau ba tháng vượt Trường Sơn, những người lính đã về đến hậu phương, nhưng công việc của những người lính tàu không số luôn bí mật nên anh Lưu Công Hào không thể đến thăm gia đình chị Thùy Trâm và cô em gái Phương Trâm như chị Thùy dặn dò...

Ngô Minh

ĐÁNH GIÁ
Hãy trở thành người đầu tiên đánh giá cho bài viết này!
  Ý kiến bình luận

TIN MỚI

Return to top