Theo số liệu báo cáo tại hội nghị, đến nay cả nước có hơn 760 tàu cá đóng mới đi vào hoạt động và 105 tàu cá khác được nâng cấp. Hơn 9 nghìn tỷ đồng được các ngân hàng giải ngân để đóng tàu và gần 13 nghìn tàu được hỗ trợ bảo hiểm. Những con số này cho thấy, sau 3 năm thực hiện, Nghị định 67 đã góp phần quan trọng vào việc phát triển ngành thủy sản theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tái cơ cấu ngành thủy sản, phát triển bền vững.
Tại Thừa Thiên Huế, đội tàu cá của tỉnh phát triển mạnh với gần 2 nghìn chiếc; trong đó tàu đánh bắt xa bờ khoảng 400 chiếc. Hiện có 40 chủ tàu được phê duyệt danh sách và đủ điều kiện vay vốn theo Nghị định 67, với tổng dư nợ cho vay trên 180 tỷ đồng. Theo kế hoạch phát triển nông nghiệp bền vững gắn với xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2017-2020 của UBND tỉnh, sẽ nâng đội tàu đánh bắt xa bờ lên 600 chiếc; tỷ trọng sản lượng khai thác xa bờ đạt trên 70%.
Những con “tàu 67” đã giúp ngư dân bám biển dài ngày hơn, vươn ra ngư trường xa hơn; chất lượng hải sản được bảo quản tốt hơn khi về đất liền, thu nhập của chủ tàu và ngư dân cũng nâng cao, góp phần bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ biển đảo. Tuy nhiên, một thực tế mà hầu hết các địa phương ven biển đang phải đối mặt là hạ tầng nghề cá không theo kịp tốc độ phát triển của đội tàu. Ở Thừa Thiên Huế, cảng cá Thuận An, các khu neo đậu tàu thuyền ở Phú Thuận, Phú Hải, Vinh Hiền… không đáp ứng được yêu cầu ra vào, neo đậu, cung cấp hậu cần cho tàu đánh bắt xa bờ. Không ít chủ tàu phải đưa tàu vào Đà Nẵng neo đậu, tiêu thụ hải sản; một số tàu bị hư hỏng khi ra vào các khu neo đậu do luồng lạch bị bồi lắng.
Một thực tế khác, đa số chủ tàu chỉ đủ tiềm lực đầu tư thân, máy tàu còn việc đầu tư các trang thiết bị, ngư cụ đánh bắt, bảo quản hiện đại hạn chế nên chưa phát huy được hiệu quả của nghề đánh bắt xa bờ. Điều này phần nào bộc lộ qua việc các tàu hậu cần nghề cá thời gian qua ít khi thu mua đủ lượng hải sản, bị thua lỗ.
Một hệ lụy nữa là mỗi khi vào mùa đánh bắt, các chủ tàu lại vất vả ngược xuôi tìm bạn thuyền. Ở vùng biển nhưng lại thiếu lao động nghề biển. Điều này một phần do thu nhập nghề biển chưa hấp dẫn để giữ chân lực lượng lao động trẻ, phần nữa do đội tàu đánh bắt phát triển nhanh trong khi việc đào tạo nghề biển cho lực lượng lao động chưa được quan tâm đúng mức, nhất là với thuyền trưởng, máy trưởng tàu vỏ thép.
Để khắc phục những bất cập trên, việc “hãm” sự phát triển nóng về số lượng tàu đánh bắt xa bờ là cần thiết. Đi đôi hạn chế phát triển về số lượng, cần quan tâm nhiều hơn đến phát triển hạ tầng ven bờ; đồng thời có chính sách hỗ trợ ngư dân đầu tư các trang thiết bị hiện đại, áp dụng mô hình khai thác, bảo quản tiên tiến; chú trọng công tác dự báo ngư trường, nguồn lợi thủy sản cho ngư dân khai thác…để nâng cao hiệu quả khai thác, đánh bắt xa bờ, giúp ngư dân có thể sống khỏe, sống vui với biển.
Hoàng Giang