Mỗi năm cứ đến đầu tháng Chạp, tôi vẫn thường về thăm cậu tôi và ngôi chùa vùng đầm phá. Cội mai núi vẫn sừng sững trước sân chùa, chỉ còn lác đác vài cọng lá. Đến khi lá trên cành rụng hết thì cội mai già như trẻ lại, bắt đầu đơm nụ xanh báo trươc ngày Tết sắp đến gần. Cậu tôi đã có thời gian dài là trú trì chùa. Cậu tôi có lần tiết lộ cho tôi biết gốc gác của cội mai chính là mai núi trên rừng Trường Sơn. Có một người tu trong chuà “nhảy núi” rồi về làng hoạt động, đã đem theo về trồng bên hiên chùa. Khi mới trồng cây mai núi còn khẳng khiu, thân cành săn chắc.Trên da cây có bám một lớp rêu xanh, năm cánh hoa vàng mơ và mỏng nhẹ. Chen cạnh bên những cây mai đất đồng vạm vỡ, cây mai núi trông có vẻ gầy guộc và khắc khổ nhưng sắc hoa vàng mơ, toả hương lại dịu nhẹ lẫn khuất khắp vườn chùa.
Dưới cội mai núi này, tôi đã nhìn tận mắt và còn được nghe nhiều chuyện kể…
Chùa còn lưu giữ một tượng Phật Bà Quan Thế Âm bằng đá, cao trên hai mét, chạm trổ tinh xảo và một cái chuông đồng cổ. Cậu tôi coi như là hai bảo vật của chùa. Nghe cậu tôi kể lại rằng: Có một vị sư người Minh Hương theo các thuyền buôn qua đây. Vị cao tăng này đã tức cảnh sinh tình làm thơ “…Vương gia từ miếu âm sâm xứ / Quýnh hữu linh quang xạ hải đông” (…Chùa vua miếu chúa nơi u tịch / Chong ánh đèn thiêng chiếu biển đông). Ngôi chùa làng nhìn ra biển đông đã được nhiều vị cao tăng, thiền sư đến hoằng pháp. Một số bài thơ vịnh cảnh còn lưu giữ khắc hoạ vẻ đẹp của vùng đầm phá nàý:“ Hồ thượng lô kê lưỡng ngạn văn / Trung lưu yên tự tuyệt trần phân…” (Gà ai xao xác gáy quanh thôn / Yên vắng chùa không cảnh giữ cồn…). Đầu xuân mỗi năm, dưới cội mai núi, nhà chùa thường treo lên trên mấy cành khẳng khiu những tờ giấy điệp có ghi những câu thơ hay đươc viết theo các loại chữ chân, chữ triện, chữ thảo hoặc chữ lệ: “Huyền Trân sái tận u sầu lệ / Hoá tác xuân mai dạ vũ thanh” (Tích vũ Huyền Trân của Ngô Thời Nhiệm), tạm dịch nghĩa: “Huyền Trân nhỏ hết nước mắt u sầu, hoá thành những tiếng mưa đêm trên cành mai mùa xuân), hoặc câu thơ “Nghêu ngao vui thú sơn hà / Mai là bạn cũ hạc là người quen” (Nguyễn Du) và còn có cả câu thơ thật hào sảng và khí khái tuyệt vời: “Thập tải luận giao cầu cổ kiếm / Nhứt sinh đê thủ bái mai hoa” (Mười năm giao du tìm thanh kiếm cổ / Một đời chỉ biết cúi đầu trước hoa mai)… “Lão” mai núi như một chứng nhân của bao đổi thay của lịch sử và cuộc đời . Cũng bên cội mai núi này, cậu tôi cho biết thêm: “Cây mai núi ni hoa vàng chỉ có năm cánh và nở đúng ngày đầu tiên của mùa xuân” và cậu giải thích thêm rằng: “Năm cánh là Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí và Tín”. Và theo cậu tôi thì Nhân là trời đất, Lễ là bốn mùa, Nghĩa là sông, Trí là sáu cõi, Tín như đá núi. Hoa mai núi sống khổ nhọc và luôn mang theo cái khát vọng hoàn thiện của bậc thánh nhân”.
Có một mùa xuân trước ngày đất nước thống nhất, bên cội mai núi, cậu tôi đã nói bóng gió rằng: “Mai vàng là biểu trưng cho những tấm lòng son sắt thuỷ chung. Năm cánh hướng về một tâm điểm tạo thành một vòng tròn như mặt trời. Hoa mai nở là bắt đầu một ngày mới, báo hiệu bình minh, niềm hy vọng và đất nước sắp hoà bình….”
Chỉ vài năm sau thì cậu tôi viên tịch. Tôi về thăm lại ngôi chùa trên vùng đầm phá xưa. “Lão” mai núi hoa vàng vẫn còn trường thọ. Hoa vẫn tươi đẹp, cánh hoa vẫn mỏng nhẹ, mềm mại, óng mượt màu vàng mơ và hương thơm thoảng dịu dàng trong vườn chùa.
Hoa mai vẫn nở năm cánh vàng mơ khi Tết đến, Xuân về , nhưng cậu tôi thì đã “đi xa” rồi… Tôi thầm nhắc câu thơ của Mãn Giác Thiền sư: “…Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận / Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”. Dường như đêm qua lão mai núi đã nở đầy hoa vàng.
Trần Hữu Lục