ClockThứ Năm, 24/03/2011 05:26

Những linh vật đất Việt

TTH - Gần đây, dư luận báo chí đã nói đến “trào lưu” đặt tượng sư tử trước nhà ở, trụ sở công ty, cơ quan công quyền, đền miếu, chùa chiền... ở nước ta hiện nay. Đó là những con sư tử nửa Tây, nửa Tàu, chẳng liên quan gì đến văn hóa Việt Nam, nhưng lại được nhiều cá nhân, đơn vị chọn làm biểu tượng cho sự giàu sang, thành đạt của cá nhân, hay để phô trương vị thế và tiềm lực của doanh nghiệp, cơ quan…
Bài viết này giới thiệu một số linh vật được người Việt tôn vinh, thờ tự hay sử dụng như những biểu tượng văn hóa, tín ngưỡng trong hàng trăm năm qua, nhằm góp phần hạn chế tình trạng “nhập nhèm văn hóa” nêu trên.
Bộ tứ linh…
Đứng đầu trong các linh vật được người Việt tôn vinh là “tứ linh”, gồm: long (rồng) - lân (kỳ lân) - quy (rùa) - phụng (chim phượng). Theo quan niệm của người xưa, loài vật trong tự nhiên được phân thành 5 loài: lông trần (đứng đầu là con người), lông vũ (đứng đầu là chim phượng), lông phủ (đứng đầu là kỳ lân), giống có vảy (đứng đầu là con rồng) và giống có mai (đứng đầu là con rùa). Do vậy, 4 loài vật: rồng, kỳ lân, rùa và chim phượng được tôn xưng là những linh vật cao quý và được chọn làm biểu tượng, chủ đề điêu khắc, trang trí, thờ tự trong các công trình kiến trúc, mỹ thuật, văn hóa và tín ngưỡng của nhiều dân tộc Á Đông, trong đó có Việt Nam.
- Rồng: Theo sách Thuyến văn giải tự, trong 389 loài bò sát có vảy thì rồng là loài đứng đầu và có sức mạnh vô song. Rồng là biểu tượng của sự sinh sôi mạnh mẽ, là biểu tượng của phương Đông (tả thanh long) và của mùa xuân. Rồng được miêu tả với nhiều dáng vẻ, tùy thuộc vào sự tưởng tượng phong phú của từng cộng đồng, từng dân tộc và luôn biến đổi theo thời đại hay không gian cư trú. Rồng là con vật có sự kết hợp của 9 loài vật khác: đầu lạc đà, sừng hươu, mắt thỏ, tai bò, cổ rắn, bụng ếch, vây cá chép, móng chim ưng, bàn chân của hổ.

Đồ án Long mã và chữ Thọ trên tường đình làng Lại Thế, Huế.
Trong tâm thức của người Việt, rồng không hẳn là linh vật dành riêng cho nhà vua hay hoàng gia. Con rồng Việt đã vượt khỏi chốn cung cấm, xuất hiện ở hầu khắp đình chùa, miếu vũ… trong dân gian. Tuy nhiên, nhà nước phong kiến có những quy định khá chặt chẽ trong việc sử dụng hình tượng con rồng. Chẳng hạn, từ thời Lê - Trịnh đến thời Nguyễn, chỉ có vua và thái tử mới được sử dụng hình ảnh rồng 5 móng; các hoàng tử thứ 2, 3, 4 chỉ được dùng hình ảnh rồng 4 móng; từ hoàng tử thứ 5 trở xuống chỉ được dùng hình ảnh rồng 3 móng hay các biểu tượng gần gũi của rồng như con giao, con cù. Con rồng trang trí trong các đình chùa của dân gian cũng chỉ có 4 hoặc 3 móng.
- Kỳ lân: Kỳ lân là linh vật báo hiệu điềm lành, là biểu tượng của sự thông thái, trường thọ, sự cao quý và của niềm hạnh phúc lớn lao. Kỳ lân cũng là biểu tượng của lòng nhân từ và sự trung thành. Kỳ lân là tên ghép, trong đó kỳ là con đực và lân là con cái. Theo truyền thuyết, kỳ lân là sự kết hợp của các loài vật khác: mình hươu, đuôi bò, trán sói, móng ngựa, da có 5 màu: đỏ, vàng, xanh, trắng, đen, dưới bụng có màu vàng. Con kỳ có một chiếc sừng ở giữa trán. Kỳ lân bẩm tính rất nhân từ, khi di chuyển nó tránh dẫm lên các loài côn trùng, không làm hư hại các loài cỏ mềm dưới chân. Nó cũng không ăn thịt hay làm hại bất kỳ con vật nào và không bao giờ uống nước bẩn.

Kỳ lân chầu trước điện Thái Hòa, Đại Nội Huế.
Trong không gian kiến trúc của người Việt, có khi kỳ lân được bài trí thành từng cặp, đứng chầu trước cung điện của vua, đầu hướng về phía cung điện nhằm biểu hiện lòng trung thành; có khi kỳ lân được bài trí ở trước điện thờ, đền miếu, mặt hướng ra bên ngoài, biểu tượng cho sự tôn nghiêm, kính cẩn. Kỳ lân còn biểu hiện cho uy quyền của nhà vua, vì thế trên ngai vua triều Nguyễn có đôi kỳ lân dùng làm chỗ đặt chân của nhà vua. Kỳ lân còn là linh vật biểu trưng cho thái tử trong mối quan hệ: rồng (nhà vua) - kỳ lân (thái tử) - phượng hoàng (hoàng hậu). Kỳ lân còn là biểu tượng của hạnh phúc, đoàn viên như ngụ ý trong vũ điệu Lân mẫu xuất lân nhi trong múa cung đình Huế.
- Rùa: Rùa là con vật biểu tượng cho sự trường thọ, sinh lực và sức chịu đựng. Rùa mang chiếc mai hình vòm trên lưng, biểu tượng cho bầu trời và phần mai phẳng dưới bụng biểu tượng cho mặt đất. Những đường rãnh ở phần trên của mai rùa tương ứng với chòm sao Đại Hùng trên trời, biểu thị cho nguyên lý dương. Những đường rãnh ở phần dưới mai rùa tương ứng với mặt đất, biểu thị cho nguyên lý âm.
Trong kiến trúc và trang trí Việt Nam, rùa thường được thể hiện cùng các linh vật khác thuộc bộ tứ linh, nhưng phổ biến nhất là hình tượng “rùa đội bia” và “rùa đội hạc” trong các đình, chùa và trong Văn miếu Hà Nội và Văn miếu Huế.  
- Chim phượng: Chim phượng được tôn vinh là vua của các loài chim, được sinh ra từ mặt trời và lửa. Chim trống gọi là phượng, biểu tượng cho phúc lộc, chim mái gọi là hoàng, biểu tượng cho hoàng hậu, xuất hiện bên cạnh hình tượng rồng biểu tượng cho vua. Loài linh điểu này cũng là hiện thân của nhiều loài vật khác: cổ rắn, mỏ gà, đuôi chẻ như đuôi cá, trán của chim hạc, mào của vịt xiêm, thân có những dấu vằn của rồng và phần đằng sau cuốn vòm như con rùa. Lông chim phượng có 5 màu, tiếng hót của phượng hoàng như tiếng nhạc và có 5 biến điệu diệu kỳ. Chim phượng cũng là biểu tượng của hiền đức, không giết hại côn trùng, làm hại cây cỏ. Chim phượng cư ngụ trên cây ngô đồng, ăn hạt hoa trúc, uống nước ở các dòng thác. Trứng của chim phượng là thức ăn của các vị thần tiên.

Đồ án phượng trang trí ở mặt chính cửa Trường An, Đại Nội Huế
Trong kiến trúc và trang trí thời Nguyễn, hình tượng chim phượng thường xuất hiện nơi các cung điện hay trên trang phục dành cho hoàng hậu, hoàng thái hậu, thái hoàng thái hậu, được thể hiện bởi 3 hay 5 chiếc đuôi, phân biệt với chim loan, là biểu tượng của công chúa, chỉ có 1 chiếc đuôi. Trong kiến trúc đình miếu dân gian, hình ảnh phượng hoàng thường gắn với nơi thờ các vị nữ thần.
… và những linh vật khác
Ngoài tứ linh, người Việt cũng tôn vinh và sử dụng một số linh vật khác làm biểu tượng văn hóa và tín ngưỡng như:
- Long mã: Long mã là hóa thân của kỳ lân, là sự kết hợp đặc biệt giữa rồng, lân và ngựa. Đó là một linh vật có sừng và bờm của rồng, mình của con hươu xạ, thân có vảy của kỳ lân, chân và móng của ngựa; cao “8 thước 5 tấc, xương cổ dài, cánh bên phải nhúng xuống nước mà không ướt, trên có thánh nhân để bức cổ đồ”.
Ở Huế, hình ảnh long mã xuất hiện nhiều nhất là trên các bức bình phong, một “sản phẩm đặc trưng” của xứ Huế. Đó là hình ảnh con long mã lưng mang Hà đồ, chân lướt trên sóng nước, đầu vươn tới các tầng mây. Long mã cũng xuất hiện trên các cung môn, miếu môn trong hoàng cung triều Nguyễn và thường đi kèm với các linh vật khác như: rùa, kỳ lân hay chim phượng.
- Nghê: Nhiều ý kiến cho rằng, nghê là linh vật do người Việt sáng tạo ra, khác hẳn với kỳ lân hay sư tử. Nghê là hóa thân của con chó, người bạn thân thiết với người dân Việt Nam. Nếu con chó là vật canh giữ của cải, nhà cửa cho người dân, thì nghê là con vật canh giữ về mặt tinh thần, chống lại các thứ tà ma, ác quỷ.

Hai con nghê trấn giữ trước cửa Hiển Nhơn, Đại Nội Huế
Nghê không chỉ xuất hiện trong các làng quê Bắc Bộ mà còn hiện diện trong các kiến trúc cung đình ở Huế. Trước cửa Hiển Nhơn và trước Miếu Môn Thế Tổ Miếu trong Hoàng Thành Huế có hai đôi nghê đá đứng chầu. Khác với hình tượng các con nghê ở đồng bằng Bắc Bộ, hai đôi nghê ở Huế đã được “cung đình hóa” với các chi tiết chạm trổ cầu kỳ, tạo thành các chòm lông xoắn ở đầu, mang tai và đuôi, xen kẽ các đao lửa ở 4 chân và sống lưng.
- Voi: Voi tượng trưng cho sức mạnh, sự khôn ngoan, thận trọng và là 1 trong 4 con vật đại diện cho sức mạnh và sinh lực bên cạnh hổ, sư tử và báo. Voi cũng là 1 trong 7 báu vật của Phật giáo nên hình tượng của voi xuất hiện nhiều trong kiến trúc và trang trí Phật giáo.
Cũng cần lưu ý rằng, dù chịu ảnh hưởng Trung Hoa khi lựa chọn một số linh vật làm biểu tượng, người Việt cũng tạo hình các linh vật này khác hẳn với cách tạo hình của người Trung Quốc; tính chất của các linh vật này trong quan niệm của người Việt Nam cũng không giống với quan niệm của người Trung Quốc. Đơn giản là vì người Việt luôn tiếp thu có chọn lọc và Việt hóa những gì đến từ bên ngoài, chứ không tiếp nhận hay vay mượn theo kiểu rập khuôn.
Trần Đức Anh Sơn
* Bài viết có tham khảo tư liệu từ các sách: Mỹ thuật Huế nhìn từ góc độ ý nghĩa và biểu tượng trang trí của Nguyễn Hữu Thông (Thuận Hóa 2001); Outlines of Chinese Symbolism and Art Motives của C.A.S. Williams (Đài Bắc 1977) và Dictionary of Chinese and Japanese Art của Hugo Munsterberg (New York 1981)
ĐÁNH GIÁ
Hãy trở thành người đầu tiên đánh giá cho bài viết này!
  Ý kiến bình luận

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

“Thừa Thiên Huế - Hành trình và khát vọng”

Đó là chủ đề của Trại sáng tác văn học, nghệ thuật do Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy phối hợp với Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật tỉnh khai mạc sáng 15/4 tại làng cổ Phước Tích, xã Phong Hòa (Phong Điền).

“Thừa Thiên Huế - Hành trình và khát vọng”
Ba luôn ở bên con

Một sớm mùa thu, tôi rẽ sương cũng mẹ đi vào lối vắng. Ở nơi đây, cảnh vật thường xuyên thay đổi, dù một năm mẹ con tôi đến những bốn, năm lần. Sự thay đổi ấy ứng với từng mùa, khi những hàng cây thi nhau lột xác, lũ chim chóc thay lời ca tiếng hát, mây trời và làn nước cũng thường biến đổi sắc màu theo từng tháng năm. Ở nơi đó, bên một dòng sông nhỏ có một khoảnh đất là nơi yên nghỉ của ba tôi. Thời gian thấm thoắt thoi đưa, thoáng chốc ngày ba từ giã cõi đời cũng đã ngót nghét gần mười năm. Mười năm đó, từ nỗi đau tận cùng đến đau đáu khôn nguôi, trong mẹ con tôi đã chuyển thành tĩnh lặng thương yêu.

Ba luôn ở bên con
Từ chuyến phượt khám phá làng Vân...

Gần đây, phượt trở thành trào lưu và sở thích của rất đông bạn trẻ. Xu hướng phượt không đơn thuần chỉ là trải nghiệm các cung đường khó hay khám phá văn hóa, vùng đất nơi mình đến mà còn kết hợp Teambuilding (xây dựng đội nhóm), các kỹ năng sinh tồn, đôi khi lồng ghép thêm hoạt động thiện nguyện.

Từ chuyến phượt khám phá làng Vân
Lão ngư kể chuyện đi biển

Những kinh nghiệm đi biển "xương máu" được truyền đời trong các gia đình ngư dân. Khi chưa có máy móc hiện đại, kinh nghiệm sóng nước là cứu cánh sinh kế của họ.

Lão ngư kể chuyện đi biển

TIN MỚI

Return to top