Nông dân Việt Nam nói chung và Thừa Thiên Huế nói riêng lâu nay vốn quen với lối sản xuất manh mún, tự cung tự cấp. Phương thức sản xuất này tồn tại thời gian khá dài, trở thành nếp nghĩ, cách làm của người nông dân. Tuy nhiên, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, cùng với sự phát triển kinh tế- giao thương hiện nay, nếp nghĩ; cách làm đó dần lạc hậu và trở thành lực cản trong phát triển của ngành nông nghiệp nói riêng và kinh tế - xã hội của đất nước nói chung.
Thừa Thiên Huế là vùng đất có nhiều tiềm năng trong phát triển kinh tế. Các tiềm năng đó cũng khá đa dạng, phong phú, từ trồng trọt đến chăn nuôi; từ kinh tế rừng đến kinh tế biển. Trong những năm qua, tỉnh quan tâm, khuyến khích, tạo điều kiện để người dân khai thác các tiềm năng phát triển kinh tế. Nhiều lĩnh vực đã tạo được những dấu ấn quan trọng, như năng suất lúa đạt bình quân gần 60 tạ/ha; diện tích rừng trồng phát triển mạnh, phủ xanh hầu hết đất trống, đồi trọc; hình thành một số vùng nuôi trồng thủy sản, nhất là vùng nuôi tôm; phát triển các vùng chuyên canh cây đặc sản; rau xanh…
Tuy nhiên thực tế phát triển cho thấy, người dân vẫn sản xuất theo kiểu manh mún, mang tính tự phát, dẫn đến hiệu quả không cao, bấp bênh nên điệp khúc “được mùa mất giá, được giá mất mùa” cứ lặp đi lặp lại. Thậm chí có nơi người dân còn “tự gặm tay mình”, khi không quan tâm đến môi trường dẫn đến dịch bệnh tái đi tái lại. Đơn cử như việc nuôi tôm trên cát. Sau thời gian phát triển ồ ạt, nay nhiều hộ nuôi tôm ở Phong Điền phải “treo hồ” do dịch bệnh, thua lỗ kéo dài.
Mất mùa đã đành, ngay cả khi được mùa người dân vẫn cứ lao đao do đầu ra bấp bênh, hiệu quả thấp. Nhìn ở góc độ thị trường, là người nuôi tôm không chủ động được đầu ra, không xác định rõ thị trường. Chẳng hạn xác định tiêu thụ nội địa thì yêu cầu sản phẩm ra sao, sản lượng nhiều hay ít. Nếu chỉ sản xuất để cung ứng cho nhu cầu tại chỗ thì rõ ràng nhu cầu sẽ không lớn, không thể phát triển ồ ạt. Muốn tiêu thụ số lượng lớn phải tính đến chế biến, xuất khầu. Nhưng người nuôi tôm lại không đủ lực để phát triển quy mô đủ lớn; quy trình nuôi không đáp ứng các yêu cầu về kích cỡ, chất lượng…
Để phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa, ở góc độ quản lý nhà nước, các cơ quan chuyên môn cần xác định các loại cây trồng vật nuôi chủ lực có nhiều lợi thế với từng vùng đất. Trên cơ sở dự báo nhu cầu thị trường sẽ quy hoạch các vùng sản xuất phù hợp và hướng dẫn người dân kỹ thuật, quy trình và khung lịch thời vụ phù hợp. Với người nông dân, không thể mạnh ai nấy làm mà cần tuân thủ quy hoạch, hướng dẫn của các cơ quan chức năng để tránh tình trạng “được mùa chung, mất mùa riêng”. Trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, các “mối liên kết bốn nhà” cũng cần được quan tâm. Chỉ khi hài hòa các lợi ích mới có thể thúc đẩy phát triển, nâng cao hiệu quả sản xuất, sức cạnh tranh của sản phẩm và thu nhập cho người nông dân.
Hoàng Giang