ClockThứ Sáu, 16/12/2016 10:48

Tình cảm gia đình và tiếng Huế qua thủ bút của Nguyễn Trọng Đãng

TTH - Mới đây, chúng tôi tìm thấy thêm một tập thơ văn có bút tích của cụ Nguyễn Trọng Đãng viết bằng chữ Quốc ngữ.

Nguyễn Trọng Đãng (1883-1961), hiệu Da Am, quê huyện Phúc Lộc, tỉnh Gia Định. Sau khi ra làm quan ở Huế, cụ nhập tịch, tại thôn Nam Trung, tổng Sư Lỗ, huyện Phú Vang, phủ Thừa Thiên. Năm 1938 dưới triều vua Bảo Đại, cụ được thăng thực thụ chức Hồng Lô tự khanh, rồi về hưu. Trong thời gian làm quan, cụ đã sáng tác nhiều tập thơ văn bằng chữ Hán và chữ Quốc ngữ, trong đó phần lớn lời văn nặng về tình cảm với những người thân trong gia đình.

Trong Da Am thi văn tập (bản đánh máy), khổ 21x26cm gồm có: Da Am tạp cảm, Nam hành cảm tác, Gia đình tạp vịnh và 6 bài văn tế (gồm những bài quốc văn và Hán văn). Sau khi cụ qua đời (1961), các con là Nguyễn Trung Thoại, Nguyễn Trung Tuân thâu thập và phân loại xong năm 1962, hoàn tất năm 1967, trong đó có bài thơ sinh nhật.

Thơ sinh nhật

“Mới đó ăn chơi cãi lộn nhau/ Nay ngoài bảy chục bạc đầu râu/ Loanh quanh nhởn cợt cùng con cháu/ Thong thả rong chơi với bạn bầu/ Uống rượu tiêu sầu hiềm ít chén/ Ngâm thơ đắc ý cũng nhiều câu/ Hòa bình nghe nói vui đời sống/ Ngửa mặt trông trời lại nhớ đâu?” Khi tuổi “gần đất xa trời”, Da Am Nguyễn Trọng Đãng làm bài thơ “Bảy mươi tám tuổi”: Thấm thoát quang âm khít tám tuần. Trời cho mạnh khỏe sống lần lần. Nặng ơn cúc dục lòng chưa thỏa. Nhẹ gánh gia đình ý cũng ưng. Cao thấp nước cò tiêu nắng hạ. Nhạt nồng chén rượu đượm mùi Xuân. Phong lưu chút đỉnh phong lưu đã. Vui sướng màng chi sự nợ nần.

Trong tiểu sử Nguyễn Trọng Đãng, cụ có cho biết về mộ phần của mẹ mình: “Năm Giáp Thân (1884), niên hiệu Kiến Phúc nguyên niên, vào ngày mồng 3/3 tổ mẫu ta thọ chúng (mất). Mộ đất an tọa tại Động Cát thuộc làng Thai Dương Hạ”. Điều này còn được ghi lại trong tập Gia đình tạp vịnh, trong đó có bài thơ: Thăm mộ Thai Dương: Tình thế lâu nay cứ hiểu lầm/ Mộ bà bởi vậy ít hầu thăm/ Cỏ rêu rậm rạp hơn kỳ trước/ Bia cột trang hoàng giống mọi năm/ Tưởng tượng dung nghi còn hiển hiện/ Ngàn sau vượng khí cứ theo dằm/ Những lời tiên khảo nay còn nhớ/ Trước mộ khi không lụy nhỏ dầm.

Mới đây, chúng tôi tìm thấy thêm một tập thơ văn có bút tích của cụ Nguyễn Trọng Đãng viết bằng chữ Quốc ngữ. Tập thơ văn khổ 16x21cm, do con gái là Nguyễn Thị Hỷ Nguyên sưu tập, đề ngày 2/4/1955. Tuy chữ viết và màu giấy đã ố vàng nhưng những bài thơ văn của cụ thật xúc động, đầy lòng yêu thương đối với vợ con. Bài “Đạo nội ngâm”, viết về người vợ luôn luôn là người gánh vác mọi việc trong gia đình để chồng lo dùi mài kinh sử, có câu: Thức khuya dậy sớm siêng năng/ Nấu cơm buôn gạo tiện tằn lại dư/ Có khi nghe dựa trướng the/ Có khi cũng thủ án mi dịu dàng/ Anh em bầu bạn kỉnh thương/ Chi lan hương phức văn chương tiếng đồn/ Khuyên chồng gắng lấy công danh/ Khiêu đình vừa đậu hoàn trình vừa lên.../ Ngàn thu lộc ấm diên trường/ Con nhờ đức mẹ cháu nương phúc bà/ Dồi dào mấy vận nôm na/ Để cho con đọc biết ta với nường/ Trăm năm sau lại đoàn viên. Cuối bài thơ có đề tên tác giả “Nguyễn Trọng Đãng. Ngày 15/12/1928 - dương lịch”.

Riêng đối với con cái, cụ làm bài thơ lấy tên người con gái Nguyễn Thị Ninh Hinh.

Ninh Hinh

Nực cười ngồi quạt nói phì phà/ Vui vẻ thông minh gái thứ ba/ Đi học chỉ nguyền chung bất giã/ Gặp duyên ai ngợ tảo nghi gia/ Gia nương thương mến chồng yêu ấp/ Hương tộc đều khen gái nhậm nhà/ Nghe sắp mua hầu công việc đỡ/ Dạy con học nối nghiệp ông bà.

Tình cảm cha con sâu nặng còn được diễn tả qua bài thơ Trung Thị, tên người con trai trong gia đình.

Trung Thị

Mặt mày tinh tú tánh lôi thôi/ Nhật, nguyệt đồng minh mạng việt khôi/ Lối trước ngâm thơ hay được thưởng/ Ngày nay lớp học được ngồi côi/ Hầu non thường đã từng yêu ấp/ Tướng núi ai ngờ lại kéo lôi/ Kẻ ghét kẻ thương chi mặc kệ/ Văn chương con hãy gắng trau dồi.

Những bài thơ viết về vợ con của cụ Nguyễn Trọng Đãng làm xúc động lòng người bởi sự bình dị, chân thành mà sâu sắc. Chữ nghĩa tiếng Huế trong thơ của cụ gợi lên nhiều cảm xúc mang giá trị nhân văn trong đó mạch thơ bằng cách liên kết tiếng ấy với một sự việc đã biết. “Những từ trong thơ “thôi”, “côi”, “kệ”, người Huế gọi hiện tượng này là từ nguyên bình dân trong giọng nói của mình.

Hồ Vĩnh

ĐÁNH GIÁ
Hãy trở thành người đầu tiên đánh giá cho bài viết này!
  Ý kiến bình luận

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

“Lùi lại” để sống bên con

Mùa thi cận kề, nhưng không ít phụ huynh đã bắt đầu thay đổi quan điểm, không còn quá kỳ vọng vào thành tích của con. Điểm cao cũng tốt, không cao cũng không sao miễn con vui khỏe là được. Tôi hiểu điều này khi mình cũng đang có hai con đang ở tuổi đến trường và cũng ở chung tâm trạng lo lắng khi tình trạng học sinh trầm cảm dẫn đến tự tử như một cách để giải thoát… đang lan truyền. Câu chuyện tưởng chừng đã cũ nhưng hệ lụy để lại đầy xót xa.

“Lùi lại” để sống bên con
Bàn giao di vật, kỷ vật cho thân nhân gia đình liệt sĩ

Sáng 15/4, Cục Chính sách, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam phối hợp với Bộ Chỉ huy Quân sự (CHQS) tỉnh tổ chức Lễ bàn giao di vật, kỷ vật của liệt sĩ cho thân nhân 2 gia đình liệt sĩ tại Thừa Thiên Huế.

Bàn giao di vật, kỷ vật cho thân nhân gia đình liệt sĩ
Lòng biển

“Lòng biển rộng đến chừng nào?”. Khôi vẫn thường hỏi thế mỗi khi lang thang trên bãi biển. Tuy chẳng rõ, nhưng với anh biển mênh mông lắm.

Lòng biển
Không thể “nhỏ hơn”

Ngót nghét cả mấy năm nay nội tôi già ốm. Nội một mình ở quê nên cả nhà tôi thay nhau tối về chăm mệ. Nội vẫn đi lại được nhưng tuổi đã 85 nên biết đâu được “trái gió trở trời”, không thể lường hết mọi chuyện xảy ra ba tôi phải làm ngay lịch phân công để đêm nào cũng có người bên cạnh mệ. Lo ăn sáng cho nội, tôi mới phát hiện ở làng Dã Lê quê tôi nằm cạnh Quốc lộ 1A có một quán cháo gạo lứt cá kho tuyệt ngon. Không chỉ nội mà cha con tôi ăn quen nên ai cũng nghiện.

Không thể “nhỏ hơn”
Ngọn hải đăng

Những lá thư anh viết cho tôi đều trên giấy học trò. Giữa thời buổi điện thoại di động, điện thoại bàn, thậm chí chỉ cần có một chiếc điện thoại thông minh với 4G là có thể nói chuyện, nhắn tin cho nhau. Vậy mà, anh vẫn viết thư cho tôi. Anh giải thích: “Hiện tại trên thế giới, người Pháp vẫn viết thư cho nhau, bởi nhìn mặt chữ như nhìn mặt người. Vả lại, chỉ có chữ viết mới có thể nói hết lời yêu thương”. Anh đã tạo cho tôi một thói quen nhận thư vào mỗi tuần. Chính từ những lá thư anh gởi, tôi mới phát hiện ra rằng, người đưa thư trong xóm tôi vẫn phải đưa thư đúng 7 ngày trong tuần. Anh dùng chiếc bì thư bán ở bưu điện để gởi. Nét chữ của anh cứng rắn khác với tính tình hiền dịu của anh.

Ngọn hải đăng

TIN MỚI

Return to top