Gần hai tháng sau, tôi nhận được tập bản thảo của Nhân. Sinh ra và tuổi thơ của Nhân lớn lên ở làng Mai Xá Chánh, Gio Linh, Quảng Trị. Mai Xá Chánh là quê hương của Bà Mẹ Gio Linh. Có lẽ vì thế, trong thơ Nhân, quê hương và mẹ gắn bó trong niềm tự hào thầm lặng và thương cảm: “Nhà mình ngày xưa/Có nhiều hầm dành cho kháng chiến/Tuổi con ngày xưa trên vai Mạ gánh/Một đầu con, đầu kia thúng gạo/Như gánh cả giang sơn...”.
Lớn lên, anh về thị xã Quảng Trị học phổ thông, vào Huế học đại học, ra Hà Nội học cao học. Ra trường, anh về làm việc và sinh sống tại Đà Lạt. Có những đêm mưa dai dẳng, tỉnh giấc, anh nhớ về Quảng Trị. Quê hương đã trở thành nỗi nhức nhối theo anh hơn nửa cuộc đời.
Nghĩ một cách giản đơn trong không gian ba chiều, ý thơ của Bùi Giáng: “Hỏi rằng người ở quê đâu? - Thưa rằng tôi ở rất lâu quê nhà” thì anh đã chọn Đà Lạt làm quê hương thứ hai: “Bây giờ chỉ còn lại ta nơi đây/Như một cây thông già giữa trời đêm Đà Lạt”
Không biết tự bao giờ, anh trở thành “Người ham chơi” (Homo sapien). Trong “Thơ Trương Văn Nhân - tập thơ đầu của anh, thơ có nhiều mảng khối, nhiều cung bậc về tình yêu, ký ức của hơn một nửa đời “Người ham chơi”.
Thơ tình của anh ngổn ngang, bề bộn. Có lúc nhẹ nhàng, có lúc lay lắt, có lúc nhức nhối đến khốc liệt. Đã được lắng lại trong một thời gian khá dài nên lóng lánh vẻ đẹp giản dị, tinh tế.
Đó là tình yêu vu vơ của tuổi học trò với những người bạn chung trường, chung lớp; với bóng dáng của người con gái đi lễ ngang qua hiên nhà; với những người xa lạ trong các buổi gặp mặt thoáng qua như cơn gió vội nhưng đã để lại nhiều muộn phiền, có lúc đến quay quắt: “Biết bao giờ tôi đòi lại được em/Dù chỉ một lần thôi ánh mắt xanh đen giờ tan học/Nên thương em mà chưa dám nói/chỉ tỏ tình qua ánh mắt thôi.../Người đã bỏ quên tôi rồi/Hàng hiên trước nhà không còn nắng... Cho đến lúc trái tim mong manh ấy thật sự bình an khi đã chợt nhìn ra mình: Ta chỉ cọng cỏ buồn em đến để rồi tan”.
Đó là tình yêu mật đắng, rực rỡ như nắng mai rồi vội tắt. Có lúc nhớ lay lắt rồi muốn quên, quên rồi lại cứ nhớ. Đó là tình yêu nhức nhối đến khốc liệt, không thể nào nguôi ngoai “Trả em về/Với người ta/Mai anh về/Với sơn hà/Ngả nghiêng”. Ngôn ngữ thơ đã trở nên thành thật đến trong suốt.
Gấp lại tập bản thảo của Nhân, tôi thở phào nhẹ nhõm như thoát khỏi mê cung tình yêu trầm luân vọng động của anh để: “Bây giờ riêng đối diện tôi - Còn hai con mắt khóc người một con” (Bùi Giáng). Và, xin trân trọng giới thiệu tập “Thơ Trương Văn Nhân” với quý độc giả.
Huế, tháng 9/2016
Nguyễn Lê Văn