Tôi soạn mấy món quà, phần đặt lên bàn thờ thắp hương cho bà nội, phần của ba mẹ và mấy đứa cháu. Thấy tôi mải lúi húi, mẹ cười hỏi: “Lần ni có quà cho mệ D. không con”?
Mỗi lần về, tôi không quên sang thăm chị D. ở cuối xóm. Thực ra “chị” D. đã lớn tuổi, nhưng xưa nay từ người già đến trẻ nít trong xóm ai cũng gọi người phụ nữ nửa khôn nửa dại ấy là “chị D.”. Người ta gọi mẹ của chị là “mệ D.”, quên luôn tên thật của bà. Thực ra, bà không phải là người sinh ra chị D. Bà lấy chồng, sinh sống trong Nam. Vợ chồng bà không có con, xót thương đứa trẻ sinh non bị mẹ bỏ rơi ở bệnh viện nên ẵm về nuôi. Chị D. nửa khôn nửa dại, lại hay đau ốm. Hết tiền hết bạc nhưng cũng chỉ chữa được bệnh tật chứ tâm tính khôn khôn dại dại thì vẫn vậy. Đã thế, chồng không may mất sớm, bà đem con về quê mua miếng đất cuối xóm dựng căn nhà tạm bợ xong, coi như tay trắng. Hằng ngày, chị D. vào rú nhặt củi. Còn bà đi chợ mua nguyên liệu làm bánh bột lọc nhân tôm thịt mộc nhĩ, gói trong lá chuối. Khi chiếc nồi hấp bắc trên ba cục gạch tỏa mùi thơm lừng, trẻ con trong xóm bắt đầu nhấp nhổm chờ mệ D. cắp rá bánh ngang qua. Hồi đó nhà nào cũng nghèo nên hầu hết các cô cậu chỉ biết…nuốt nước bọt mà thèm thuồng ao ước. Mệ D. phải đi rạc cẳng từ xóm này đến xóm khác, đến chiều mới bán hết rá bánh. Hai mẹ con lần hồi bữa rau bữa cháo qua ngày. Dù không rứt ruột đẻ ra, mệ D. vẫn hết lòng yêu thương đứa con nuôi kém may mắn.
Cảm động trước tấm lòng của mệ D., khi nhà có món ngon hay mỗi dịp tết, thể nào ba mẹ tôi cũng san sẻ một phần thức ăn, dành cặp bánh chưng biếu mẹ con mệ D. Nhà tôi cũng là ngơi trú ẩn cho hai người phụ nữ nghèo khổ đơn chiếc ấy trong những cơn bão lớn. Nội chia nửa phần trầu cau, cùng mệ D. ngồi nhai bỏm bẻm, chờ gió bão qua đi. Dù anh em tôi còn bé xíu, mẹ cũng thủ thỉ giải thích, phải biết trân trọng những người có tấm lòng nhân hậu.
Thỉnh thoảng, mệ D. lại dúi cho chị em tôi mấy cái bánh. Không để mẹ tôi kịp ngăn, lúc nào mệ cũng hấp háy cười bảo: “Cô cho mấy đứa nhỏ nhận đi. Ân tình mới quý. Mấy cái bánh cô đừng từ chối mà tội tui, tội lũ nhỏ”. Cứ thế mùi vị thơm tho của những chiếc bánh nhân tôm thịt mộc nhĩ gói bằng lá chuối cùng ánh mắt cười hấp háy ngày một đậm đà trong tuổi thơ tôi. Để rồi trở thành ký ức và nỗi nhớ. Tôi nhớ cái cách ba mẹ san sẻ, giúp đỡ người khác, nhớ ân tình mộc mạc của người phụ nữ nghèo. Để khi xa về tôi biết dành một phần quà, vòng qua lối đi hẹp đến căn nhà nhỏ xập xệ cuối xóm, dù từ rất lâu mệ D. (cũng như nội tôi) đã là người thiên cổ.
Phạm Thùy Chi