ClockThứ Ba, 16/02/2021 14:34

Của tin còn lại…

TTH - Nghề làm gốm là một trong những ngành nghề có truyền thống lâu đời bậc nhất tại Việt Nam. Có thể nói, nhắc đến lịch sử hình thành và phát triển của ngành nghề gốm sứ cũng như di sản gốm sứ cổ cũng đồng nghĩa đề cập đến một vấn đề liên quan mật thiết đến lịch sử, văn hóa dân tộc.

“Con đường thăng trầm của gốm Việt”

Đài sen, men trắng xám đời Lý

Gốm thời Lý (1010-1224)

Cuối thế kỷ X, hai triều đại quân chủ chính thống đầu tiên là Đinh và Tiền Lê nối nhau cầm quyền trị nước được 42 năm (968-1009), chưa thực hiện những cải cách xã hội quan trọng. Năm 1010, Lý Công Uẩn được quân dân tôn lên ngai vàng thay thế nhà Tiền Lê. Ông quyết định dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về trung tâm Đại La và đổi tên thành Thăng Long (Hà Nội). Nước Đại Việt bước vào giai đoạn phục hưng toàn diện.

Thời Lý, từ vua quan cho đến dân chúng đều sùng tín đạo Phật, tôn làm quốc giáo. Triều đình đứng ra xây dựng chùa tháp tại kinh đô và khắp các địa phương, quy mô to lớn không thua gì cung điện. Nhằm phục vụ nhu cầu kiến trúc, trang trí, thờ phụng tín ngưỡng, ngành gốm được thúc đẩy phát triển nhanh chóng.

Ngoài loại gốm đất nung, thời Lý còn sản xuất được loại gốm gia dụng cao cấp phủ men ngọc, men ngà, men xanh lục rất đẹp. Hoa sen là nguồn cảm hứng dạt dào để tạo mẫu. Những loại bát, dĩa có đồ án trang trí hình hoa sen búp, nở được thực hiện bằng cách đúc nổi hoặc khắc chìm trên thai cốt trước khi phủ men độc sắc. Cuối thời Lý phát minh thêm màu nâu đậm đà có thể dùng bút lông tô, vẽ thẳng lên cốt gốm. Nhờ đó, nghệ nhân sáng tác các đề tài trang trí phong phú, bay bướm hơn.

Gốm thời Trần (1225-1400)

Với mưu lược của thái sư Trần Thủ Độ ngai vàng của họ Lý chuyển vào tay họ Trần một cách êm thấm, không gây xáo động lớn trong xã hội.

Chum gốm hoa nâu thời Trần

Đạo Phật vẫn được cả nước tôn sùng, vua quan và dân chúng kiến tạo chùa tháp khắp nơi. Trên cơ sở truyền thống, nghề gốm liên tục phát triển. Các đề tài Phật giáo như hình Phật, rồng, hình tháp, hoa sen, hoa cúc, lá bồ đề... vẫn thể hiện trên các vật phẩm gốm xây dựng, trang trí và thờ cúng, phục vụ nhu cầu tín ngưỡng. Sản phẩm đồ gốm gia dụng thời Trần không còn kiểu thức thanh nhã như đời Lý mà tạo dáng vững chắc, giản dị. Đồ gốm hoa lam dưới men thời Trần là một thành tựu lớn làm căn bản cho nghề gốm các đời sau kế thừa và phát triển.

Gốm thời Lê Sơ (1428-1526)

Sau khi lãnh đạo Nhân dân kháng chiến chống xâm lược Minh thành công, Lê Lợi khai sáng triều Lê. Nhà Lê dựa vào tư tưởng Tống nho để thiết lập mô hình xã hội quân chủ chuyên chế. Phật giáo không được triều đình chính thức ủng hộ như thời Lý-Trần, việc xây dựng chùa chiền, tu hành theo đạo Phật bị nhà nước hạn chế. Do đó thời Lê sơ, Phật giáo không có dấu ấn quan trọng trên đồ gốm mỹ thuật lẫn gia dụng. Tuy nhiên, công nghệ chế tạo đồ gốm hoa lam phát triển rất mạnh mẽ đạt đến đỉnh cao, phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu.

Gốm thời Mạc (1527-1593)

Năm 1527, quyền thần Mạc Đăng Dung bức tử Lê Cung Hoàng, bước lên ngai vàng dựng nên triều Mạc.

Để thu phục quần chúng lao động chống lại thành phần Nho sĩ trung thành với nhà Lê, nhà Mạc đã bãi bỏ chính sách hạn chế Phật giáo. Quý tộc và Nhân dân tích cực ủng hộ trùng tu, xây dựng chùa chiền. Nghề gốm gặp cơ hội thuận lợi phát triển nên trở lại tìm nguồn cảm hứng chế tác theo đề tài Phật giáo. Nhiều nghệ nhân gốm còn lưu danh trên sản phẩm của mình, tiêu biểu như Đặng Mậu Nghiệp, tự Huyền Thông, quê ở xã Hùng Thắng, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách (nay thuộc xã Minh Tần, huyện Nam Thanh-Hải Dương). Gia đình họ Đỗ ở xã Bát Tràng, Đỗ Xuân Vi, Đỗ Thị Tuân-Bùi Huệ, Bùi Nghĩa, Bùi Thị Đỗ-Hoàng Phúc, Hoàng Thị Vệ…

Minh văn đắp nổi, khắc chìm trên sản phẩm gốm thời Mạc, ghi lại đủ mọi thành phần xã hội, nam, nữ, Tăng, tục phản ảnh tinh thần bình đẳng trong chốn thiền môn, khác hẳn với chỗ tế tự của Nho giáo luôn luôn chú trọng phân biệt giới tính, địa vị.

Gốm thời Lê-Trịnh (1593-1789)

Nhà Lê được hai họ Nguyễn-Trịnh nỗ lực phù tá, năm 1593 đánh bại nhà Mạc trở về Thăng Long. Sau thời kỳ chiến tranh dữ dội, các trung tâm gốm nổi tiếng ở Chu Đậu, Thanh Lâm gần quê hương của vua Mạc bị tàn phá nặng nề nên tàn lụi dần. Từ thế kỷ XVII đến XVIII, nghề gốm chỉ còn thịnh đạt ở vùng Bát Tràng, Thổ Hà sản xuất loại gốm thờ cúng theo phong cách mới, các đề tài bắt nguồn từ Phật giáo mất dần, thay thế bằng các đề tài của Nho giáo như tứ linh, tam hữu, tam đa, lục bảo…

Cuối thế kỷ XVIII nghề gốm Việt Nam suy thoái vì nhiều nguyên nhân nội tại và ngoại lai. Đồ tự khí, trang trí tại chùa chiền dần dần bị thay thế bằng loại đồ sứ ký kiểu hoặc nhập khẩu từ Trung Quốc.

Đồ sứ hoa lam ký kiểu thời các Chúa Nguyễn

Giữa thế kỷ XVI đến gần cuối thế kỷ XVIII, các chúa Nguyễn truyền nối nhau cai trị vùng đất Nam Hà. Dựa theo truyền thống “Cư trần lạc đạo” thời Lý - Trần, chúa Nguyễn đưa ra chủ trương “Cư Nho mộ Thích”, để ổn định tâm lý xã hội đẩy mạnh việc phát triển đất nước vào phương Nam. Đạo Phật được triều đình lẫn quần chúng Nhân dân tích cực ủng hộ.

Tô vẽ cảnh đường lên chùa Thiên Mụ, sứ men lam, thời chúa Nguyễn, thế kỷ XVIII

Rất tiếc, Nam Hà thời này không có lò gốm chuyên môn có thể chế tác từ khí tốt đẹp như các lò gốm truyền thống ở Bắc Hà (Chu Đậu, Bát Tràng, Thổ Hà). Do đó để phục vụ cho nhu cầu thờ cúng, trang trí cung điện, chùa chiền, chúa Nguyễn đã gởi kiểu mẫu qua đặt làm đồ sứ tại Giang Tây, Trung Quốc.

Thông qua di sản gốm sứ cổ, ngày nay chúng ta có thể hiểu được quá trình tiếp thu, tiếp biến văn hóa từ Ấn Độ, Trung Quốc truyền sang nước ta. Trên nền tảng đó, tổ tiên chúng ta đã suy nghĩ, lựa chọn những tư tưởng, đạo lý phù hợp với bản sắc văn hóa dân tộc để sáng tạo ra những vật phẩm thờ cúng, trang trí, phục vụ sinh hoạt đời sống,… rất đặc sắc và thích hợp. Sự phát triển ấy, trải qua những thời kỳ dựng nước và giữ nước, với các triều đại khác nhau như Lý, Trần, Lê, Nguyễn,…, nhưng vẫn gìn giữ được định hướng “hòa nhi bất đồng”.

Thưởng ngoạn, nghiên cứu di sản văn hóa của tổ tiên truyền lại từ bao đời nay, có lẽ điều mong mỏi lớn nhất của mỗi chúng ta, những ai nặng lòng với văn hóa và vốn quý của dân tộc, dành riêng cho đời này lẫn đời sau, có thể gói gọn trong hai câu:

Của tin còn lại chút này

Phải cầm cho vững chớ giày cho tan…

Bài, ảnh: Trần Đình Sơn

ĐÁNH GIÁ
Hãy trở thành người đầu tiên đánh giá cho bài viết này!
  Ý kiến bình luận

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Tái sinh nghề gốm Noq

Nghề gốm Noq của người đồng bào Pa Cô, Cơ Tu… ở A Lưới đã trải qua hơn nửa thế kỷ thất truyền. Những sản phẩm gốm Noq như lọ hoa, chum, vại, cốc… tưởng chỉ còn có thể tìm thấy ở bảo tàng hay các khu trưng bày, nay lại một lần nữa được thực hiện bởi bàn tay của các nghệ nhân nơi đây.

Tái sinh nghề gốm Noq
Return to top