Hình ảnh “lon gạo đám” thật sự trở thành mối gắn kết bền chặt hơn tình làng nghĩa xóm, góp phần thiện tâm trong mỗi người dân quê tôi.
Ông tôi kể, thuở xưa làng còn nghèo, mười nhà thì có đến chín nhà thiếu đói quanh năm, gạo ăn chẳng bao giờ được giáp hạt. Khi gia chủ có người mất thì con cháu tập trung lo hậu sự nên cái cần nhất là gạo để nấu cơm. Xuất phát từ ý tưởng đó, một bô lão của làng đã đề xuất thành lập cái gọi là “lon gạo đám” và đã được các vị cao niên cũng như toàn thể con dân của làng chấp thuận.
Hễ nhà ai có người “ra đi” thì gia đình tang chủ cử người đến báo tin cho vị trưởng làng biết, rồi ông trưởng làng lệnh cho ông đánh phèng (được làng cử) mặc áo dài đen khăn đóng ra đầu làng, cuối xóm gióng phèng để thông báo tin buồn đến toàn thể con dân của làng biết. Nếu người mất là đàn ông thì đánh 3 hồi 7 tiếng, đàn bà thì 3 hồi 9 tiếng. Nghe tiếng phèng thì người ta sẽ biết ngay đàn ông hay bàn bà, rồi từ đó mà suy đoán để “luận” ra người chết là ai, già hay trẻ.
Các trưởng xóm có nhiệm vụ đến từng nhà trong xóm để thu gom gạo, sau đó tập hợp về một nhà gần gia đình tang chủ để đi phúng điếu.
Ngày đám tang ông ngoại tôi, gia đình sử dụng gánh gạo làng phúng điếu để nấu cơm cho con cháu ăn mà trực đám suốt một tuần, khi đám tang đưa xong gạo đám vẫn còn, thế là ngoại chia từng bì (bao) nhỏ phân phát cho con cháu mang về nhà dùng tiếp. Ngoại bảo: “Ăn để nhớ đến ôn mi nữa đó, và ăn để tạ ơn làng”.
Ngày nay, cuộc sống vật chất của người dân làng tôi tuy đã đủ đầy, no ấm, không còn cảnh “gạo tháng giêng, tiền tháng chạp”, đám tang của ông bà, cha mẹ, người thân được con cháu tổ chức khá chu đáo, cảnh con cháu đoàn tụ ăn uống sum vầy. Cho dù gánh gạo của làng đi điếu có thể được một số người sử dụng vào mục đích khác, nhưng hình ảnh “lon gạo đám” vẫn còn hiện hữu, duy trì mãi mãi như “luật bất thành văn”.
Võ Văn Dần