ClockThứ Năm, 17/10/2013 05:56

Bắc, Nam trường đình xưa ở đâu?

TTH - Gần đây, giới nghiên cứu Huế có ý kiến nên phục dựng hai công trình kiến trúc độc đáo, dựng vào thời vua Minh Mạng, đó là Bắc trường đình và Nam trường đình. Đại Nam thực lục chính biên từng chép : “Nay sắc sai dựng Nam, Bắc trường đình để làm chỗ đưa đón tiễn tặng thì xin đặt Nam trường đình ở phía nam cầu An Cựu, đặt Bắc trường đình ở phía bắc cầu Hương Trà, ngoài cửa tây bắc Kinh thành: Cả hai đều phải rộng rãi cao lớn, xung quanh đình nên trồng nhiều cây dương liễu, để phù hợp với ý cổ nhân… Vua chuẩn y lời bàn ấy, sai phủ Thừa Thiên thuê dân làm”. (Quốc Sử quán, quyển 152, bản dịch, tập 4, trang 648). Nam, Bắc trường đình hiện nay đã biến mất. Thế thì vị trí của hai phế tích này ở đâu?

 

Về địa điểm dựng Bắc trường đình:

 

Cao Bá Quát trong “lời đề cuối tập thơ của ông Thương Sơn từng nhắc đến Bắc trường đình: “Song ngày mai, ở cầu Đốc Sơ, trông về phía nam, thấy phía nam cửa khuyết… Mua rượu ở nơi trường đình cởi áo bồi hồi ngâm vịnh các bài thơ “Hà thượng” của Quốc Công…”. Cũng Cao Bá Quát, từng tiễn bạn Nguyễn Mã Trai bên cầu Đốc Sơ, làm thơ có câu : “Đốc Sơ kiều Bắc tống tương quy, Giang liễu hàng biên yến yến phi (Tiễn người qua Bắc cầu Đốc Sơ/Hàng liễu bên sông, én lượn lờ (Đỗ Xuân Cẩm tạm dịch). Hoặc đêm thu nhớ bạn tả Bắc trường đình: “Bắc trường đình ngoại liễu sơ điều/Phi quá Hương giang đệ kỷ kiều. (Phía Bắc trường đình liễu chớm xanh/Bay tận Hương giang mấy cầu hành)

 

Cầu Đốc Sơ (Cầu Hương Trà), gần cầu có bãi tha ma, nền móng cũ của chợ An Vân và Bắc trường đình đã bị phế bỏ. (ảnh bên)

 

(Đỗ Xuân Cẩm tạm dịch)...Qua thơ văn Cao Bá Quát vừa được trích dẫn có thể đoán Bắc trường đình ở phía bắc cầu Đốc Sơ và gần cầu này. Rà tìm trong Đại Nam Nhất thống chí phần ghi chép về chợ An Vân: “Ở bờ phía bắc sông Hộ Thành về mặt sau huyện Hương Trà, buôn bán tụ họp, năm Minh Mệnh thứ 16 dựng Bắc Trường đình ở đây, nay bỏ” (sđd. tr.182). Cầu Đốc Sơ, có khi gọi là cầu Hương Trà, xưa được xây bằng gạch, kiểu vòm, còn hiện nay đã sửa lại bằng bê tông cốt thép. Dân hai bờ sông Hộ Thành hà (Bắc), còn gọi là sông Đào, khi chưa có cầu sắt (sau 1975), qua lại bằng đò. Bến đò phía bắc gọi là bến Đốc Sơ (hay bến Ông Mới). Gần bến có Miếu Âm hồn. Lên bến đi một đoạn dọc bờ sông Đào thì qua cầu An Hòa (dài 6,6m, rộng 8m) (xưa gọi là cầu An Vân). Còn đi vào cầu Đốc Sơ để qua cầu theo con đường cổ để ra Đức Bưu, Tri Lễ, Hương Cần…Phía Bắc và gần cầu Đốc Sơ, có một bãi tha ma, thuộc làng Dương Xuân (xưa thuộc làng An Vân), đây chính là vị trí chợ An Vân xưa và Bắc Trường đình. Từ vị trí này Cao Bá Quát thấy phòng thành Huế và núi Thương Sơn (nay là Kim Phụng).

 

Best Western Primer Indochine Palace được xây dựng ở khu vực từng có nền móng cũ của Nam Trường đình. Ảnh: HK

 

Về địa điểm dựng Nam trường đình:

 

Các vị bô lão làng An Cựu từng cho biết chợ An Cựu xưa, còn gọi là chợ Đường Ngang. Chợ có tên là chợ Đường Ngang vì nó nằm trên một đường ngang, tức sau này là đường Hùng Vương. Chợ ở gần Nhà văn hóa trung tâm hiện nay. Năm 1835, khu vực có chợ Đường Ngang được dựng thêm Nam trường đình. Trước đây, vì gần chợ có trại lính Pháp nên người Pháp bắt chợ phải dời đến bờ sông An Cựu, địa điểm hiện nay. Cầu An Cựu xưa không phải cầu An Cựu nay, bắc qua sông An Cựu. Đại Nam nhất thống chí chép: “Cầu An Cựu: Ở xã An Cựu huyện Hương Thủy, bắc từ đầu đời Gia Long, cầu dài 7 thước, năm Minh Mệnh thứ 16 sửa lại.” (sđd, tr . 188). 7 thước ta, tức khoảng 2,8 mét tây, chi tiết này chứng tỏ cầu An Cựu xưa không thể là cầu An Cựu nay. Ngày xưa có một con hói được đào từ bờ bắc sông An Cựu, gần bên phải của cung An Định, chạy giữa cánh đồng An Cựu rồi qua cánh đồng xã Thủy Phú (tức làng Phú Xuân) rồi đổ vào sông Mới. Cầu “Thứ bảy” trên đường Bà Triệu là bắc qua con hói này, còn cầu An Cựu xưa nằm trên đường Ngang và cũng bắc qua con hói ấy. Về sau người Huế gọi cầu An Cựu xưa là cống Lầu Tây (vì sát cống có lầu của một quan Tây xây để ở). Đại Nam nhất thống chí chép về chợ An Cựu: “Ở huyện Hương Thủy, buôn bán đông đúc, là một chợ lớn trong huyện; năm Minh Mệnh thứ 16 dựng Nam trường đình ở đây, nay bỏ…”(sđd, tr.183). Trước 1975, cống Lầu Tây vẫn còn. Cống xây bằng gạch vồ theo kiểu vòm và đá gan gà. Phía nam cống, phía đông đường Ngang, có nền đất cao hơn mặt ruộng, trên ấy người ta trồng sắn, nưa, chuối. Đây là nền móng cũ của Nam trường đình, thuộc khu vực có khách sạn Best Western Primer Indochine Palace hiện nay.

 

Thay lời kết:

 

Về ý tưởng phục dựng Bắc và Nam trường đình, có lẽ chỉ có thể dựng ở địa điểm mới, theo phong cách kiến trúc cũ, chứ không thể phục dựng ở địa điểm cũ được. Hai địa điểm của hai công trình kiến trúc cũ đã trở thành nghĩa trang và cơ sở thương mại, không phải là cửa ngõ của đường giao thông qua thành phố Huế. Người xưa đã phế bỏ Bắc trường đình và Nam trường đình, ắt phải có lý do chính đáng. Dẫu đời nay, chúng ta biết được hai công trình này qua thư tịch, tưởng tượng cảnh quan của chúng rất thơ mộng, mang phong vị Đường thi, và muốn phục dựng, ấy là ý tưởng tốt. Tuy nhiên, việc phục dựng đúng như vị trí xưa thì bất khả thi vậy.

Lãng Điền
ĐÁNH GIÁ
Hãy trở thành người đầu tiên đánh giá cho bài viết này!
  Ý kiến bình luận

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Vài chuyện ở địa danh Phủ Cam

Theo “Phủ Biên Tạp Lục” của Lê Quý Đôn, địa danh Phủ Cam ra đời cùng thời với Phủ Dương Xuân dưới thời các chúa Nguyễn. Cho nên phải gọi là Phủ Cam mới đúng.

Vài chuyện ở địa danh Phủ Cam
Tìm về truyền thống thủy quân ở làng xã vùng Huế

Trong lịch sử vùng Huế, những ngôi làng Việt cổ thường nằm dọc lưu vực sông Ô Lâu, sông Bồ và sông Hương. Từ làng xã “gốc” phát triển về thượng nguồn hoặc hạ lưu, hình thành những làng “ngọn”. Vùng đất Phú Lộc, ngoài lưu vực sông Truồi, còn có dải cồn cát ven biển và đầm phá có vị trí chiến lược, vành đai an ninh quốc phòng đặc biệt quan trọng, để bảo vệ Kinh đô Huế.

Tìm về truyền thống thủy quân ở làng xã vùng Huế
Vài nghi vấn từ bia mộ nhà chí sĩ yêu nước Tăng Bạt Hổ

Trong khuôn viên di tích nhà lưu niệm danh nhân Phan Bội Châu, ngoài di tích nhà ở, nhà thờ và lăng mộ của cụ Phan, còn có nhiều lăng mộ, bia tưởng niệm… của các chí sĩ yêu nước được đưa vào đặt, an táng ở đây; trong đó, có lăng mộ của nhà chí sĩ yêu nước Tăng Bạt Hổ, một trong những nhân vật được xem là biểu tượng của tinh thần chống Pháp bất khuất cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Cuộc đời và sự nghiệp của ông được nhiều người biết đến. Tuy nhiên, ít ai biết vì sao lăng mộ của ông lại được đưa vào an táng trong khuôn viên di tích nhà lưu niệm Phan Bội Châu.

Vài nghi vấn từ bia mộ nhà chí sĩ yêu nước Tăng Bạt Hổ
Return to top