ClockThứ Năm, 06/12/2012 05:56

Đi tìm người có công xây dựng “Trường đại học”thời chúa Nguyễn

TTH - Văn miếu Long Hồ được xây dựng vào thời Duệ Vương Nguyễn Phúc Thuần là “Trường đại học” nổi tiếng của Thuận Hóa Quảng Nam đẳng xứ (tức Đàng Trong). Khi quân đội Lê-Trịnh chiếm Phú Xuân [1774], “Trường đại học” Long Hồ vẫn tiếp tục hoạt động, nhà bác học Lê Quí Đôn từng vào Phú Xuân với chức Hiệp Trấn, từng giảng dạy ở đó. Khâm sai đại thần Phan Huy Ích, được vua Lê cử vào công tác ở Phú Xuân năm 1776 cũng không quên viếng thăm đại học này. Thời vua Quang Trung đóng đô ở Phú Xuân, văn miếu Long Hồ được củng cố và phát triển, dựng thêm Quốc Tử Giám để thái tử Nguyễn Quang Toản đến học tập.

Khi vương Nguyễn Phúc Ánh trở lại cựu đô, rồi lên ngôi hoàng đế, vẫn bảo lưu hoạt động của văn miếu Long Hồ, như một “trường đại học” ở kinh đô Phú Xuân, từ 1801 đến 1808. Văn miếu Long Hồ chấm dứt hoạt động giáo dục khi công trình này trở thành đền Khải Thánh [1808].

Nghi môn văn miếu Long Hồ

Khi khảo sát điền dã ở các làng phụ cận văn miếu Long Hồ, tiếp cận truyền ức của một số bô lão, biết có một vị Hộ Bộ kiêm Binh Bộ họ Lê có công lớn trong buổi đầu xây dựng công trình này. Có bô lão thì cho vị Hộ Bộ kiêm Binh Bộ ấy là Lê Văn, Thượng thư thời Lê Thánh Tông, có người lại cho vị Hộ Bộ kiêm Binh Bộ ấy là Lê Quí Đôn…

Ấn sáu Bộ thời Lê

Trước hết có thể khẳng định thời Lê Thánh Tông không có một quan Thượng thư nào vừa phụ trách Bộ Hộ vừa phụ trách Bộ Binh. Rà soát Đại Việt Sử Ký Toàn Thư không tìm thấy một nhân vật nào là “Hộ Bộ kiêm Binh Bộ Thượng thư”. Trong sách Ấn Chương Việt Nam của tác giả Nguyễn Công Việt không có khuôn dấu “Hộ Bộ kiêm Binh Bộ” thuộc thế kỷ 15. Vậy chức “Hộ Bộ kiêm Binh Bộ” chỉ có ở Đàng Trong, tức Thuận Hóa Quảng Nam đẳng xứ xưa, từ khi chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng vương năm 1744, thành lập Lục Bộ. Vì công việc các Bộ không nhiều nên nhà Chúa đặt ra chức “Hộ Bộ kiêm Binh Bộ”, và vị nào giữ chức này thì có khuôn dấu “Hộ Bộ kiêm Binh Bộ”. Đọc Đại Nam thực lục tiền biên, bắt gặp những vị sau đây: …Hộ Bộ kiêm Binh Bộ Lê Quang Đại (năm 1744; Quang Đại chết năm 1745), Hộ Bộ kiêm Binh Bộ Nguyễn Thừa Tự (năm 1749; chết năm 1750), Hộ Bộ kiêm Binh Bộ Trần Đình Hy (1750, chết năm 1761). Các nhà nghiên cứu Lê Nguyễn Lưu, Huỳnh Đình Kết từng công bố hình chụp dấu “Hộ Bộ kiêm Binh Bộ” trên tờ kiểu năm Cảnh Hưng thứ 13 [1752] (nguồn: Hòm bộ làng An Lỗ). Một vài tư liệu về Hộ Bộ kiêm Binh Bộ nêu trên đủ bằng chứng khẳng định, vị họ Lê có công xây dựng văn miếu Long Hồ không phải là Lê Văn, Thượng thư thời Lê Thánh Tông, không phải Lê Quí Đôn, không phải Hộ Bộ kiêm Binh Bộ Lê Quang Đại (ông này mất trước khi văn miếu Long Hồ xây dựng năm 1770).

Rà soát Đại Nam thực lục tiền biên, không thấy chép vị Hộ Bộ kiêm Binh Bộ nào họ Lê thời Chúa Duệ Tôn Nguyễn Phúc Thuần, chỉ biết thêm một vị Hộ Bộ kiêm Binh Bộ thời Nguyễn Phúc Ánh còn là Nguyễn Vương, đó là Hộ Bộ kiêm Binh Bộ Phạm Ngọc Uẫn. May mắn thay, trong Đại Nam chính biên liệt truyện đã cung cấp tư liệu để trả lời câu hỏi trên. ĐNCBLT, tập I, trang 178 chép: “Con thứ hai của [Lê] Xuân Chính là Xuân Huyên cũng do chân ấm tử được vào viện Văn chức. Thế tông hoàng đế năm 11 (1748), thăng ký lục doanh Bố Chính. Năm thứ 15 (1752) mùa hạ, thăng ký lục Quảng Nam. Năm thứ 18 (1755) thăng Hình bộ. Năm thứ 20 (1757) lại làm cai bạ doanh Quảng Nam. Năm thứ 24 (1761), thăng Hộ Bộ kiêm Binh Bộ, lĩnh Đại tư nông. Năm Ất Dậu (1765), mùa hạ, Duệ Tông hoàng đế mới lên ngôi, được thăng tham chính, quản Hộ bộ kiêm Binh bộ. Canh Dần (1770), năm thứ 5 dựng văn miếu ở Long Hồ, Xuân Huyên vâng mệnh xem đất và trông coi việc lập văn miếu. Quý Tỵ năm thứ 8 (1773), mùa xuân Huyên chết, được phong Đại lý tự thượng khanh, thụy là Trung Thành. Sau đó, vì có công chọn đất lập văn miếu, được thờ ở Dụy Lễ đường bên cạnh văn miếu. Năm đầu Gia Long (1802), vẫn còn nguyên thế. Năm thứ 7 (1808), đổi lập văn miếu ở chỗ ngày nay, Xuân Huyên mới không được thờ ở Dụy Lễ đường nữa.”.

Kinh đô Phú Xuân từng đổi chủ ba lần, nơi các tập đoàn phong kiến không “đội trời chung” từng phủ định nhau, triệt hạ những “thành quả văn hóa” của mỗi bên rất gay gắt. Thế nhưng bên nào cũng vì “tôn sư trọng đạo” nên không loại bỏ Văn miếu Long Hồ. Từ năm 1773, khi Lê Xuân Huyên qua đời, do có công xây dựng Văn miếu Long Hồ, Duệ Tôn Nguyễn Phúc Thuần cho thờ Lê Xuân Huyên ở Dụy Lễ đường, cạnh văn miếu Long Hồ. Quan quân Lê-Trịnh vẫn tế lễ ông, rồi triều Tây Sơn vẫn giữ lệ ấy. Đây là một điểm nhấn văn hóa, một hành xử đẹp của cha ông ngày xưa đối với người có công với giáo dục, không vì người ấy từng là bề tôi tận tụy phục vụ triều đình kẻ thù. Cho hay những thầy giáo đạo cao đức trọng như Lê Xuân Huyên thì chế độ nào cũng phụng thờ, và trường học nổi tiếng đào tạo nhiều nhân tài thì chế độ nào cũng bảo lưu vậy.

Lãng Điền
ĐÁNH GIÁ
Hãy trở thành người đầu tiên đánh giá cho bài viết này!
  Ý kiến bình luận

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

“Cụ” bàng trong trường học được công nhận cây Di sản

Sáng 17/2, thầy giáo Nguyễn Văn Tuân, Hiệu trưởng Trường THCS thị trấn Phú Lộc (huyện Phú Lộc) cho biết, cây bàng cổ thụ trong trường vừa được Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam công nhận là Cây Di sản Việt Nam.

“Cụ” bàng trong trường học được công nhận cây Di sản
Báo cáo nghiên cứu đầu tư dự án phục hồi di tích điện Cần Chánh

Chiều 12/1, tại Nhà hát Duyệt Thị Đường, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô (BTDTCĐ) Huế tổ chức Báo cáo nghiên cứu khả thi đầu tư dự án Tu bổ, phục hồi và tôn tạo di tích điện Cần Chánh. Tham dự, có các chuyên gia, nhà nghiên cứu văn hoá - lịch sử cùng lãnh đạo các sở, ngành liên quan.

Báo cáo nghiên cứu đầu tư dự án phục hồi di tích điện Cần Chánh
Núi Bân & lễ hội Quang Trung tại Huế

Cùng với Hà Nội và Bình Định, Huế tự hào có khu tưởng niệm và lễ hội Quang Trung gắn với sự kiện Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, xuất quân ra Bắc Hà, đánh tan 29 vạn quân Thanh xâm lược.

Núi Bân  lễ hội Quang Trung tại Huế
Return to top