ClockChủ Nhật, 13/11/2022 08:56

Một thuở giếng khơi

Ký ức giếng làng

Đắn đo, suy tính mãi, cha mẹ tôi quyết định dựng lại gian bếp và khu công trình phụ tắm giặt, vệ sinh. Muốn quy hoạch cho gọn ghẽ, dự tính phải bịt miệng giếng khơi lại. Giọng mẹ nghe chiều trăn trở, rằng nhiều năm nay nông thôn mới phát triển, người làng đua nhau ly hương, tích cóp được bao nhiêu về cất nhà cửa khang trang. Nhưng mạnh ai nấy làm, vô tình làm nguồn nước ô nhiễm hết cả. Giếng khơi xưa trong mát là thế, nay đâu còn dám dùng ăn uống gì, chỉ để tắm giặt, tưới cây thôi. Tôi chợt thấy lòng trống trải, như kiểu sắp mất mát một điều gì thật thiêng liêng, thương quý.

Cách đây mươi lăm, hầu như nhà nào cũng có một cái. Đến nhà ai mà không có giếng, là thấy bất thường, lạ lẫm lắm. Nhớ chiếc gàu cao su khum tròn có miếng gỗ “làm cầu” để buộc dây thừng vào múc nước. Thỉnh thoảng gàu bị tuột dây rơi xuống giếng, cha kiếm cái thang dài, luồn chiếc đòn gánh hay đoạn cây tre qua bậc thang trên cùng rồi đặt ngang miệng giếng, rồi cẩn thận lần từng bậc một di chuyển xuống sâu. Có khi giếng sâu, chiếc thang không đủ dài, cha phải thiết kế thêm một cái gậy có cột đầu móc, lựa mãi mới móc gàu lên được.

Múc nước ở độ sâu hàng chục mét, tôi chỉ kéo được mấy gàu là đã thở dốc, hai bàn tay đỏ rát. Nước giếng khơi trong và mát lịm những ngày hè. Đi học, đi chăn trâu, đi làm cỏ lúa, bụm tay vục nước lên mặt, mệt nhọc như vơi đi mấy phần. Sáng mùa đông rét buốt, kéo gàu nước từ giếng lên, thấy làn hơi như khói mỏng bảng lảng bay, chạm tay vào thấy ấm. Nước ở giếng khơi kỳ diệu như vậy.

Có giếng khơi là sẽ có giàn rau trái phủ xanh quanh năm. Mùa nào thức ấy, mẹ ươm đủ loại dây leo, nào bầu, bí, mướp, su su, đậu ván... Dưới giàn cây xanh mướt, nhịp sống thường ngày bên thềm giếng cũng thung dung, nhẹ nhõm hơn. Chẳng biết gì về mạch, nguồn nước, nhưng tôi cảm nhận, dường như mỗi chiếc giếng đều có thân phận riêng. Có giếng nước trong và ngọt, hãm chè xanh rất thơm và đẹp nước, nấu cơm thì đậm vị. Nhưng có giếng nước lại lờ lợ, khó lòng mà ăn uống.

Làng quê trở mình thay da đổi thịt từng ngày, người ta có điều kiện sắm sanh nhiều tiện nghi phục vụ đời sống, thu vén mọi thứ sao cho thật gọn ghẽ, sạch đẹp. Nhưng hệ lụy là mạch nước ngầm của hàng trăm, hàng ngàn chiếc giếng khơi làng quê đã dần trở nên vấy bẩn. Vì sợ ô nhiễm và bệnh tật, nên nhà thì lấp, nhà thì bịt miệng để cải tổ không gian sống giống nhà tôi, chẳng mấy ai còn dám ăn uống bằng nước giếng nữa. Bây giờ tới nhà ai cũng thấy bể chứa nước mưa, nhiều nhà bể to thì trữ dùng ăn uống được cả năm. Người ta làm vậy vì niềm tin cảm tính, nước mưa của trời là sạch. Cùng với đó, nước máy sạch đã về tận làng, đường ống bắt đến từng nhà, khiến những chiếc giếng khơi cứ ngày một hao hụt dần.

Nghĩ về giếng khơi cho nguồn nước ngọt lành qua năm tháng, một ngày nào đó rồi sẽ chỉ còn trong hoài niệm, lòng dâng nỗi bâng khuâng nhớ tiếc. Có lẽ, những chiếc giếng đã hoàn thành sứ mệnh thời đại của nó, nhưng liệu rằng khi buộc phải trôi vào ký ức, giếng có biết buồn?

MAI ĐÌNH

ĐÁNH GIÁ
Hãy trở thành người đầu tiên đánh giá cho bài viết này!
  Ý kiến bình luận

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Chầm chậm tháng Ba

Tháng Ba, đôi khi mình muốn ngồi thật lâu dưới một tán cây. Những dải nắng trùng trình rọi qua vòm lá rậm, rắc mật lên bờm hoa mê mướt tím, đậu lại trên đôi cánh bầy sẻ đang mổ vào hư vô. Màu xanh ngợp đầy của lá tràn vào lồng ngực tháng Ba, như thôi thúc người ta hoài vọng về một quãng đồng mùa con gái, một cánh rừng rộng đến mộng mị, hay ấp ủ chiêm bao trong mảnh vườn tuổi nhỏ. Lứa gió đầu xuân hãy còn hây hẩy, nhu mì, nhón tay mở những cánh cửa tỉnh thức, thả bầy ý nghĩ đi rong. Giữa quãng vắng tưởng như bất động, mình ngồi đợi những xa xôi quay về.

Chầm chậm tháng Ba
Ký ức rồng xanh

Ấn tượng về rồng sớm nhất trong tôi mà đến nay còn lưu giữ, là con rồng ở đình làng; ngôi đình được xây dựng lại. Sợ chiến tranh tàn phá, xã mang sắc bằng, kèo cột cất giấu trong làng. Tôn tạo lại đình tuy nhỏ hơn song vẫn mang dáng vóc ngày xưa. Tôi nhớ câu thơ truyền trong dân gian mà mấy cụ đọc lại về ngôi đình bị hư hại bởi đạn bom, trước lúc nó được tháo dỡ đem cất: “Đình làng nay không rồng bay phượng múa/ Đứng trụi trần như bốt gác đầu thôn…”.

Ký ức rồng xanh
Ký ức mặn nồng & rực đỏ

Té ra cái vùng Ngũ Điền từng rất khổ, rất xa, rất khó khăn nhiều bề quê tôi có khá đông người làm nghề viết, cả văn và báo. Trong đó có anh bạn trẻ, phóng viên Đài Phát thanh Truyền hình Thừa Thiên Huế, giờ “trở chứng”, toàn viết trên trang facebook của mình về kỷ niệm, tập hợp lại, in tới mấy cuốn sách hót hòn họt. Toàn thời đói khổ mà vui.

Ký ức mặn nồng  rực đỏ
Thầy, cô một thuở

Những năm 1980, quý thầy, cô giáo về dạy ở trường làng tôi là những thầy, cô ở Huế và những thầy, cô ở Quảng Bình. Thầy, cô ở khu tập thể ngay trong khuôn viên trường. Đời sống của giáo viên hồi đó khó khăn thì ai cũng biết rồi. Cái thời tem phiếu, thầy, cô hàng tuần phải đạp xe xuống cửa hàng lương thực ở xã Điền Hải cách xã tôi 7km để mua gạo và thực phẩm. Bởi rứa mới có một câu chuyện mà bây chừ kể lại sẽ rất khó tin, nhưng lại là chuyện có thật. Đó là chuyện anh Đ., một học sinh đã phát biểu rằng: “Thầy, cô ăn uống cực quá nên bày ra chuyện cắm trại để học sinh nộp tiền vô có mấy bữa ăn sướng!”. Chuyện đến tai thầy Thương và sau đó nhà trường đã kêu anh Đ. lên nhắc nhở...

Thầy, cô một thuở
Return to top