Ở nơi đó, ngày ngày tiếng rao hàng vặt của các bà làm chúng tôi phải lóng ngóng xin tiền bố, mẹ. Thỉnh thoảng, lại bắt gặp ông “tò he” chạy trên đường. Không lời rao. Chỉ có tiếng xe đạp xèn xèn của phụ tùng thiếu nhớt. Một chiếc hộp gỗ nhỏ với vài bông hoa, những con thú nhiều màu được gắn vào đầu que tre, rồi cắm xuống hàng lỗ đục trên nắp hộp. Đơn giản vậy mà ông lão vẫn như một thỏi nam châm có sức hút kỳ lạ khiến bọn chúng tôi chạy nhanh về phía ông. Hiếm khi lũ trẻ chúng tôi bỏ lỡ ông “tò he” mỗi lần qua ngõ xóm.
Chúng tôi không biết ông “tò he” tên là gì và ở đâu. Thế mà mỗi lần thấy ông, chúng tôi đều kêu to: “Ông tò he đến rồi”. Ngày ấy còn rất bé nhưng đến giờ tôi còn nhớ rõ gương mặt ông “tò he” sạm nắng, lúc nào cũng cưỡi chiếc xe đạp, chắc nó đã cùng ông đi khắp nẻo đường để mang lại tiếng cười, niềm vui cho lũ trẻ như tôi. Ông “tò he”có nụ cười hiền lành. Phía sau chiếc xe đạp ông thường chở chiếc hộp gỗ nhỏ, được chia thành nhiều ngăn để đựng từng loại bột, pha thành nhiều màu khác nhau. Mùi bột gạo thơm lừng làm chúng tôi cứ thèm được ăn biết bao, nhưng dù có ăn được thì cũng không nỡ mà chỉ cầm ngắm nghía mỗi khi có nó trong tay. Hôm ấy, ông ghé qua xóm tôi. “Ông ơi, hôm trước ông nặn cho cháu con “khỉ con”, cháu để dành, bây giờ nó thành “khỉ mốc” rồi ông ạ!”. Không hiểu sao cả lũ bạn cười nghiêng cười ngả. Ông cũng cười: “Vậy để ông nặn cho cháu con khỉ khác nhé!”.
Chỉ ít bột, thêm vài que tre, ông lão “tò he” đã sẵn sàng làm phép biến hóa: Ông ngắt từng mẩu bột, những ngón tay của ông nhanh nhẹn, khéo léo, điêu luyện đến nỗi chúng tôi đều phải “ồ lên” khi thấy cái mũi, con mắt, quần áo của nhân vật trong truyện dần hiện lên... Có lúc tôi nghĩ đó là một phép thuật, bởi trong phút chốc ông ấy đã cho “ra lò” vô số tò he, đủ loại hình dáng sinh động, đáng yêu, với nhiều màu sắc, từ chó, mèo, chim chóc... đến những nhân vật lịch sử, như Thánh Gióng, Bà Trưng, Bà Triệu... giống y như thật. Chúng tôi như bị mê hoặc, mỗi đứa một kiểu nhưng đại loại cả bọn đều há mồm, mắt mở to, chăm chú nhìn, thỉnh thoảng lại nuốt nước bọt vì thèm “bánh tò he”. Thích nhất là lúc cả bọn cùng đoán mò xem ông nặn gì từ những chi tiết đầu tiên và mừng vui xuýt xoa khi mình đoán trúng.
Lớn lên, ông lão “tò he” không còn xuất hiện nữa. Chắc giờ, ông ấy cũng đang ở một nơi xa lắm... Hình ảnh về ông, về những tò he như in sâu vào tiềm thức của tôi từ lúc nào không biết. Để rồi những sắc màu của tò he đã thành sắc màu nhớ mà tôi luôn khát khao, nuối tiếc mỗi khi chợt nhớ về tuổi thơ.
Khánh Quan