- ThS. LS Nguyễn Văn Phước, Trưởng Văn phòng Luật sư Huế: Theo quy định của Luật Đầu tư năm 2005, Luật Doanh nghiệp 2005 và Nghị định 102/2010/NĐ-CP ngày 1/10/2010 hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp thì “Tất cả các tổ chức là pháp nhân, bao gồm cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, không phân biệt nơi đăng ký địa chỉ trụ sở chính và mọi cá nhân không phân biệt nơi cư trú và quốc tịch, nếu không thuộc đối tượng quy định tại khoản 2, điều 13 của Luật Doanh nghiệp đều có quyền thành lập, tham gia thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam theo quy định của Luật Doanh nghiệp.”
Đối chiếu với các quy định tại Nghị định 56/2009/NĐ-CP ngày 12/6/2006 (được sửa đổi bổ sung tại Nghị định 43/2009/NĐ-CP ngày 7/5/2009 về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện và quy định tại điều 7 Nghị định 102/2010/NĐ-CP về ngành nghề cấm kinh doanh thì dịch vụ lưu trú không phải là ngành nghề, dịch vụ bị cấm kinh doanh. Do đó, vợ chồng bạn có thể thực hiện việc thành lập doanh nghiệp để kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Căn cứ vào quy định của Luật Đầu tư, Nghị định 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư và Nghị định 102/2010/NĐ-CP thì chồng của bạn được liên doanh với bạn để đầu tư thành lập công ty TNHH hai thành viên trở lên. Trường hợp này, vợ chồng bạn thực hiện ĐKĐT gắn với thành lập tổ chức kinh tế để được cấp giấy chứng nhận đầu tư và đồng thời là giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (ĐKDN).
Kinh doanh dịch vụ lưu trú không phải là trường hợp thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện theo quy định tại điều 29 Luật Đầu tư và không thuộc danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện áp dụng cho nhà đầu tư nước ngoài ban hành kèm theo Nghị định 108/2006/NĐ-CP; đồng thời, quy mô vốn đầu tư trong trường hợp của bạn là dưới 300 tỷ đồng, nên về thủ tục ĐKĐT được quy định theo các điều 46, 50 Luật Đầu tư được hướng dẫn chi tiết tại điều 44 Nghị định 108/2006/NĐ-CP và quy định tại điều 20 Nghị định 43/2010/NĐ-CP về ĐKDN.
Tuy nhiên hiện nay, theo Công văn 5809/UBND-XT ngày 31/12/2010 của UBND tỉnh về quy trình hướng dẫn nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh thì đối với trường hợp nêu trên, bạn phải thực hiện thêm một công đoạn nữa trước khi thực hiện ĐKĐT theo quy định của pháp luật hiện hành mà chúng tôi đề cập. Cụ thể, Công văn 5809/UBND-XT quy định trước khi bạn làm thủ tục ĐKĐT như chúng tôi viện dẫn ở trên thì: “Nhà đầu tư gửi văn bản đề nghị chấp thuận chủ trương đầu tư (theo mẫu) đến Văn phòng UBND tỉnh. Sau đó, cơ quan này xem xét đề nghị của nhà đầu tư và trả lời trong thời gian không quá năm ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị. Nếu đồng ý với đề nghị của nhà đầu tư, UBND tỉnh sẽ thông báo mã số dự án đầu tư để nhà đầu tư tiếp tục thực hiện các công việc tiếp theo. Nếu từ chối đề nghị của nhà đầu tư, UBND tỉnh sẽ thông báo lý do không chấp thuận dự án bằng văn bản cho nhà đầu tư.
Mã số dự án đầu tư sẽ được UBND tỉnh đồng thời thông báo cho các sở và cơ quan chức năng có liên quan để chỉ đạo phối hợp thực hiện và hỗ trợ nhà đầu tư trong quá trình nghiên cứu và triển khai dự án. Nhà đầu tư sử dụng mã số này khi giao dịch với các cơ quan chức năng có liên quan trong quá trình triển khai nghiên cứu và triển khai dự án đầu tư.”
Như vậy, theo Công văn 5809/UBND-XT mà chúng tôi nêu trên thì không quá năm ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị, UBND tỉnh sẽ trả lời cho bạn về việc đồng ý hay từ chối đề nghị của bạn về dự án đầu tư để bạn có cơ sở thực hiện.
Bùi Vĩnh (ghi)