ClockThứ Năm, 18/07/2013 10:52

Tìm mộ liệt sĩ Nguyễn Ngọc Vu

TTH - Việc kiếm tìm ngôi mộ liệt sĩ Nguyễn Ngọc Vu được kể trong bài viết này, diễn ra cách đây đã hơn hai mươi năm. Có một số người có tên trong bài viết nay cũng không còn sống. Ngôi mộ mà thân nhân liệt sĩ tìm được, là nhờ công sức đóng góp rất lớn của những đồng đội cũ. Đây cũng chỉ là một trong muôn vàn cuộc kiếm tìm khó khăn những hài cốt liệt sỹ hy sinh trong hai cuộc kháng chiến vừa qua của dân tộc.

Vào một đêm mùa thu của Hà Nội, ông Nguyễn Ngọc Dũng, nay đã mất, hồi ấy (năm 1991) ông đang là Vụ trưởng Vụ Thanh tra Bộ Tài chính, trong một giấc mộng, ông thấy người anh ruột của mình hiện về. Trên mình mặc bộ quân phục cảm tử quân, đầu đội mũ ca-lô, chân mang giày săng - đá, anh ông oai vệ khác thường.

- “Anh vẫn còn sống ư, anh Vu?”, ông ôm anh mình và rờ rẫm khắp người. “Sao người anh lạnh? áo lại ướt đẫm? Ôi máu... Máu ở đâu nhiều thế?...”

Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Vu

- Em còn phải hỏi sao? Hơn 40 năm qua anh chỉ có một mình. Buồn vì cô đơn, anh nhớ quê hương quá! Mưa rừng lạnh lẽo, thác đổ ầm ầm suốt ngày đêm. Anh chẳng có gì ngoài bộ quân phục này, rét lắm em! Hãy mau đón anh về...

Ông Dũng bật dậy. Trời không nóng nhưng người ông mồ hôi ướt đẫm. Ông lại nằm xuống thao thức cho đến sáng, rồi dậy thắp ba nén hương nguyện cầu cho linh hồn anh mình.

Đêm sau, giấc mộng lặp lại y như đêm trước. Ông Dũng tức tốc viết thư cho hai người em ruột của mình là ông Cung ở Huế và ông Tùng ở TP Hồ Chí Minh bàn kế hoạch tìm kiếm. Không biết có phải do nỗi ám ảnh, nhưng từ khi nhận được thư anh mình, ông Tùng cũng gặp những giấc mộng tương tự ông Dũng.

Bắt đầu từ tháng 10/1991, ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và Nha Trang, ông Dũng, ông Tùng, và những người anh em khác quyết lần tìm tung tích anh mình qua những đồng đội cũ.

Năm 1949, gia đình nhận được giấy báo tử vỏn vẹn: “Vô cùng thương tiếc báo tin, đồng chí Nguyễn Ngọc Vu, Chính trị viên tiểu đoàn, thuộc Trung đoàn 83, đã anh dũng hy sinh năm 1948 tại mặt trận Nha Trang”.

Anh, em, họ hàng bên mộ liệt sĩ Nguyễn Ngọc Vu

Cuộc tìm kiếm manh nha từ một người đồng hương. Ông Tùng cùng người em ruột là Nguyễn Ngọc Cam, nay đã mất, hồi ấy là Trưởng phòng Kiểm sát chung, VKSND TP Hồ Chí Minh, đến gặp ông Châu, trước từng là bộ đội Phú Yên - Khánh Hoà. Qua ông Châu, hai người được biết địa chỉ của đại tá Hải, nguyên Trung đoàn trưởng Trung đoàn 80 (E80). E80 và E83 là hai đơn vị ở cạnh nhau - hy vọng chợt le lói. Một buổi chiều tháng 10-1991, tại TP Hồ Chí Minh, ông Tùng hăm hở bước vào toà nhà hai tầng nằm trong khu nhà các sĩ quan cao cấp. Tiếp ông là một người tóc đã bạc nhưng vẫn còn khỏe mạnh.

- “Xin lỗi, anh có phải là đại tá Hải?”... ông Tùng nôn nóng vào đề ngay - tôi đi tìm hài cốt thân nhân là Nguyễn Ngọc Vu, nguyên Chính trị viên tiểu đoàn thuộc E83, hy sinh năm 1948 tại mặt trận Nha Trang- Miệng nói, tay rút tấm ảnh anh mình trao cho ông Hải.

Người chính trị viên ấy, trước lúc ra đi, chẳng hề lưu lại cho gia đình mình một tấm ảnh.

Năm 1967, thời kỳ ác liệt của chiến tranh phá hoại miền Bắc, một người cháu tên là Tập, tình cờ lên thăm bạn mình ở Lào Cai. Anh mở tập album của gia đình bạn, chợt phát hiện tấm ảnh cỡ 4x6 đã ố vàng. Trong ảnh, người chiến sỹ đội mũ calô, có khuôn mặt y đúc một người cậu của mình hiện đang còn sống. Anh xin được bóc tấm ảnh khỏi tập album, và lật mặt sau thấy hàng chữ lờ mờ:

“Anh Định! để lại anh lời chào Bôn-chê-vic trước khi được anh giao trách nhiệm lãnh đạo bộ đội danh dự cảm tử quân. Dũng cảm ra đi, nhưng vẫn hẹn ngày về với nhiều chiến công.7/2/1947. Nguyễn Ngọc Vu”

Chủ nhân của tấm ảnh cũng chẳng hề biết xuất xứ của nó, bà chỉ nhớ đó là kỷ niệm để lại của người chồng đã hy sinh. Bà trân trọng trao lại cho Tập. Tập vội vã đem về Hà Nội để sao chụp...

Ông Hải ngắm nghía tấm ảnh rất lâu: “Nhìn thì quen. Quen lắm! Nhưng tên thì tôi không nhớ”. “Anh hãy cố nhớ, tình cảm đồng đội mà! Hơn nữa tôi cũng chẳng biết cậy nhờ ai lúc này”, ông Tùng van nài.

“Tôi chịu không tài nào nhớ nổi”, ông Hải thủng thẳng” “À mà E83 phải không? Vậy tôi giới thiệu anh qua gặp Trung tướng Lư Giang, trước là E phó của tôi, sau chuyển qua làm E trưởng E83”.

Sau một ngày nghỉ ngơi, ông Tùng tiếp tục hành trình. Gặp được Trung tướng Lư Giang tại nhà riêng, cũng như lần gặp đại tá Hải, ông nôn nóng rút ảnh, vào đề ngay.

- Nguyễn Ngọc Vu... Nếu là Vu trí thức người Huế thì tôi rất nhớ. - Trung tướng vừa nói vừa ngẫm nghĩ - hy sinh 1948... Vậy là thuộc E80. Ngày ấy Trung đoàn có 3 Vu, mà E83 khi đó chưa thành lập - Ông khẳng định - được chôn cất tại chân núi Hòn Lớn, thuộc khu mộ chiến sỹ 46-54, địa phận Ninh Hoà - Khánh Hoà.

15 ngày ông Tùng liên tục lui tới nhà Trung tướng Lư Giang. Tuyệt nhiên chẳng có gì sáng sủa hơn ngoài “Khu mộ chiến sĩ 46-54”. Ông Tùng ra về, lòng đầy thất vọng; vậy là số phận anh mình cũng chẳng thể tránh khỏi những nấm mộ vô danh. Đã vô danh thì còn biết đâu mà lần. Cuộc tìm kiếm đi dần vào ngõ cụt...

Năm 1976, khi gia đình ông Tùng đoàn tụ tại Huế, hai cụ thân sinh cũng chỉ đưa ra một nguyện vọng: hãy đi tìm và đưa về quê hương hài cốt của người con lâu năm lưu lạc.

Năm 1984, trước khi nhắm mắt, cụ ông còn nhắc lại với con cháu: gắng tìm mộ Vu.

Ông Tùng chợt nhớ đến một địa chỉ cũng do đại tá Hải cung cấp - ông Thái, nguyên Chính uỷ E83. Ông Tùng cùng ông Cam hối hả lao về Gò Vấp.

Tại Hội Cựu chiến binh Gò Vấp, chẳng có ai tên là Thái. Tiếp hai ông hôm đó là đại tá Mai Diêu. Vì quá chán nản nên hai ông cũng tính hỏi han qua loa rồi ra về. Chợt cả hai ông cùng sáng mắt: “Trước đây tôi là lính của E80-83. - Đại tá nói - các anh phải đến gặp Thiếu tướng Đoàn Huyên, nguyên E phó E80 - 83 và những người này...”

Tiếp tục hành trình. Tại khu nhà cấp tướng ở Tân Sơn Nhất, ông Tùng gặp Thiếu tướng Đoàn Huyên.

- Một chính trị viên à? Quen, rất quen. Thiếu tướng xem ảnh rồi gật gù- nhưng tôi không tài nào nhớ nổi. - Ông suy nghĩ hồi lâu để khẳng định - nếu hy sinh ở Hòn Lớn trong thời gian tôi ở trung đoàn thì tôi không thể quên (tức là E80- 83). Đó là điều chắc chắn. Tốt nhất là anh phải đi tìm những người làm công tác chính trị. - Ông lục tìm trí nhớ. - À, để tôi giới thiệu anh đến Trung tướng Nguyễn Đường, nguyên Chính uỷ khu 6, một thời là Chính uỷ E80.

Ông Tùng tìm đến Trung tướng Nguyễn Đường trong tâm trạng tuyệt vọng nhen nhóm. Ông viết sẵn lời đề nghị ra giấy, định bụng không gặp trung tướng thì gửi lại và ra về ngay.

Tại số nhà 18 Trường Sơn - Tân Sơn Nhất, bà vợ trung tướng rất vồn vã tiếp ông Tùng. Ông chuẩn bị ra về thì trung tướng bước vào, cầm tờ giấy đọc qua: “Tìm thân nhân là Nguyễn Ngọc Vu, nguyên Chính trị viên tiểu đoàn thuộc E83”. Ông ngắm nhìn ông Tùng: “Sao anh giống anh Vu thế!” Ông Tùng bật khóc, lao đến ôm chặt trung tướng: “Trời ơi! Biết bao đồng đội cũ, bây giờ mới có một người còn nhớ anh tôi”. “Vu..., Vu D5 người Huế, làm sao tôi quên được”. Bao nhiêu kỷ niệm cũ hiện về trong đầu trung tướng. Nhưng, trong chiến đấu, sống, chết và chôn cất là chuyện quá ư bình thường, dễ gì nhớ được tường tận qua chừng ấy năm.

Rồi ông kể: “Ngày ấy tôi ở trên trung đoàn, chỉ biết anh Vu được chôn cất tại núi Đồng Bò. Tôi giới thiệu anh đến gặp những người này của D5 hiện đang còn sống... Cần chú ý Thiếu tướng Nam Hồ, Phó Tư lệnh quân khu 1, hồi đó là D trưởng D5, địa chỉ 37 Lý Nam Đế, Hà Nội.

Như vậy, anh mình thuộc D5, E80 chứ không phải E83 như trong giấy báo tử. Bức thư “Gửi người D trưởng” được ông Tùng thảo ngay trong đêm, gửi đến Thiếu tướng Nam Hồ.

Tập cũng quá chán nản với nhiều nguồn tin chẳng hề khớp nhau ở Nha Trang. Chỉ còn hy vọng cuối cùng, anh lên thẳng Hội Cựu chiến binh tỉnh Khánh Hoà. May mắn cho anh đã gặp được Thiếu tướng Hà Vi Tùng, Chủ tịch hội, trước là cán bộ E80, ông chẳng phải suy nghĩ lâu: “Anh phải ra Hà Nội để gặp Thiếu tướng Nam Hồ, nguyên D trưởng D5, hiện ở khu tập thể cấp tướng Lý Nam Đế (không nhớ số nhà)”

Tập tức tốc ra Hà Nội gặp ông Dũng. Thiếu tướng Nam Hồ đang nằm viện. Tập cùng ông Dũng đến Quân y viện 108. Sau khi nhận được lời đề nghị, thiếu tướng vội rút lá thư của ông Tùng mới gửi cho mình. Dù rất mệt, ông vẫn cố ngồi bóp trán vẽ sơ đồ đường về Đồng Bò.

- Thực ra tôi đã lên trung đoàn được 3 tháng trước khi anh Vu hy sinh. Tôi chỉ biết anh được chôn cất tại núi Đồng Bò, chứ không biết cụ thể. Vậy anh cầm sơ đồ này, tôi sẽ giới thiệu một số người...

Trong số những người mà thiếu tướng giới thiệu, đáng chú ý là ông Phan Nhĩ, nguyên D phó D5, và ông Nhu, nguyên cán bộ D5. Nhưng hiện tại hai người ở đâu? Thiếu tướng không biết! Lại bắt đầu đi lùng Phan Nhĩ. Suốt 10 ngày ròng rã khắp Hà Nội, ông Dũng gặp được bốn vị đại tá nữa, đều nguyên là cán bộ trung đội và đại đội thuộc D5, nhưng tất cả đều lắc đầu: “Chịu không nhớ nổi... và cũng không biết ông Phan Nhĩ hiện ở đâu”. May sao ông Dũng lại gặp được ông Ca, nguyên là một vụ trưởng, trước cũng từng ở E80: “Ô... ông Phan Nhĩ đã về hưu và vào Quy Nhơn cách đây 1 năm. Tôi không biết địa chỉ, nhưng cho anh địa chỉ bác sỹ Đôn, người quen thân Phan Nhĩ”. Ông Dũng viết thư cho bác sỹ Đôn. Trong khi ông Tùng đang nôn nóng chờ thư trả lời của Thiếu tướng Nam Hồ thì nhận được điện của anh mình: “Đã lần ra đầu mối đáng tin cậy. Đang chờ đợi”

Sau 20 ngày kể từ khi viết thư, ông Dũng nhận được bức thư trả lời đầy cảm động: “Anh Vu hy sinh trong trận chiến chớp nhoáng với biệt kích Pháp. Chết trong tư thế ôm khẩu tiểu liên Tôm - xơn đã nhả hết đạn, được mai táng ở lưng chừng núi Đồng Bò, do tôi là chủ tang lễ (tức Phan Nhĩ), ở đấy có thác Dốc Gáo ngày đêm nước đổ ầm ầm. Có một tảng đá to, mà đứng đó nhìn rõ TP Nha Trang...”. Ngoài ra còn có một sơ đồ ngôi mộ, cùng với các vật chuẩn xung quanh, nhưng đáng tiếc, đường từ chân núi lên đến đó ông Phan Nhĩ cũng không mô tả nổi. Ông Dũng được biết, sức khoẻ Phan Nhĩ hiện rất kém, ông bị đau tim nặng, đi đâu cũng có bác sỹ đi kèm, chưa biết sống chết khi nào.

Ông Dũng, ông Tùng đều có mặt ở Quy Nhơn, gặp ông Phan Nhĩ: “Ngày ấy, mỗi chiến sỹ chất một viên đá lên ngôi mộ”, ông Phan Nhĩ giọng thều thào – “ngoài ra có một tảng đá tự nhiên rất lớn đặt ở hậu đầu”. Đường từ chân núi lên khá lắt léo, tôi không nhớ nổi. Tiếc là tôi không còn đủ sức để đi. Vậy các anh nên tìm những người này để họ dẫn lên... Hy vọng họ còn nhớ”.

Qua Phan Nhĩ, hai người nắm thêm được một số địa chỉ. Ông Tùng điện vào Nha Trang. Ngay sau khi nhận điện, buổi tối, Tập tìm được nhà đại tá Phạm Văn Nhu (tức Châu) Phó Giám đốc Công an Khánh Hoà, nguyên tiểu đội trưởng cảm tử thuộc D5

- “Tôi là người rất thân cận với chính trị viên Vu, và đã tham gia chôn cất. Nhưng, để chắc chắn ta cần tìm thêm anh Mệnh, lính cảm tử D5, người trực tiếp khâm liệm anh Vu. Hiện anh Mệnh đã về hưu và ở ngay Nha Trang này...”, ông Nhu phác thảo kế hoạch.

Như vậy tính đến ngày 10/2/1992, sau hơn 4 tháng ròng rã quần đảo khắp 3 thành phố: Hồ Chí Minh, Hà Nội, Nha Trang; gặp gỡ cả thảy trên 30 đồng đội xa gần, hy vọng về dấu vết ngôi mộ người chính trị viên D5 mới thực sự bừng sáng. Công việc cuối cùng - ngoài sơ đồ và các vật chuẩn xung quanh ngôi mộ do ông Phan Nhĩ cung cấp, giữa vùng núi Đồng Bò mênh mông, ngôi mộ sẽ nằm hướng nào?

Qua ông Nhu, Tập gặp được đại tá Tâm, nguyên trung đội trưởng của D5. Vào một sớm tinh mơ, Tập cùng đại tá dùng xe gắn máy đi về núi Đồng Bò. Xe dừng dưới chân núi. “Cậu đứng đây giữ xe để tớ lên”, vừa nói, ông Tâm vừa thoăn thoắt vượt lên triền dốc. Đã ngoài sáu mươi, nhưng xem ra ông Tâm vẫn còn dẻo dai. Sau hơn hai giờ đồng hồ lang thang trên lưng chừng núi, ông đã nhìn thấy một tảng đá lớn. Mừng rỡ, ông vội tụt xuống: “Rồi! Rồi! Thấy rồi, may quá!, vừa nói ông vừa khoát tay cho Tập quay xe. Ngay tối ấy, Tập cùng ông Nhu đến nhà ông Cuộc (chiến sỹ của D5) nhờ tìm hộ ông Mệnh. Tại nhà mình, chỉ sau có mấy phút nghe mọi người trình bày, ông Mệnh hai mắt đỏ hoe: “Người chính trị viên ấy như mẹ hiền... Tôi về đây từ năm 1988 vẫn thường nghĩ đến sự ra đi của anh ấy... Nhưng, cũng không biết thân nhân anh là ai? Ở đâu? Để rước anh về”.

Chỉ sau 5 ngày kể từ khi Tập lên núi lần thứ nhất, chúng tôi có mặt tại Nha Trang. Một buổi sớm sương mù dày đặc, đoàn gồm 8 người (có 3 cựu binh D5) về Đồng Bò bằng xe U-oát. Dừng dưới chân núi làm lễ cúng cáo. Mặt trời đã lên khá cao mà sương vẫn chưa tan. Ông Nhu đau chân ngồi lại, còn 7 người nối đuôi nhau theo đường mòn lên núi. Ngang lưng chừng, dừng nghỉ. Hai ông Mệnh, Tâm cắt rừng bên phải xác định lại địa danh. Chừng 30 phút, cả hai thất vọng trở ra: tảng đá ông Tâm nhìn thấy hôm trước là không phải. Nghỉ 15 phút. Ông Mệnh lại cắt rừng về hướng cũ. Sau 1 giờ đổng hồ, ông thất vọng trở ra: “Nhiều đường mòn quá! Không thể xác định nổi con đường quen thuộc ngày xưa. Tôi đã cố tìm một số vật chuẩn in hằn trong trí nhớ... không biết chúng nằm ở đâu?” Ông Mệnh không nản. Sau một hồi nghỉ ngơi, ông lại rủ ông Tâm theo hướng cũ cắt rừng lần thứ ba. Trời nắng gay gắt. Đã giữa trưa, chúng tôi đều nóng ruột mà hai vị cựu binh vẫn biền biệt. Tất cả đều tìm bóng mát, hết ngồi lại nằm. Chợt một người gánh than đi xuống, đặt gánh ngay trước mặt Tập: “Anh đã gặp ông Bảy Nghĩa chưa?... Hôm trước nghe anh nói, tôi về có hỏi ông Bảy. Ông nói có một ngôi mộ được đắp bằng những cục đá to bằng cái đầu, mà họ làm rẫy sắp đến nơi rồi!” Cả đoàn phấn chấn bật dậy: Quyết định xuống núi. Ông Tùng hối hả lao xuống trước hỏi dồn dập mọi người. “Hai thanh niên này biết ngôi mộ ấy”, ông Nhu vừa nói vừa chỉ tay vào hai người đi rừng. “Ở trên kia, cạnh một gốc cây, có một ngôi mộ chất đá từng cục, nhưng sau này họ bốc đá đi để làm hố đốt than. Đúng ngôi mộ ở dưới không thì cháu chưa rõ” - hai thanh niên trả lời. Ông Tùng mặt cắt không còn hột máu. Cả đoàn chúng tôi sững sờ. Hy vọng cuối cùng tưởng đã cầm chắc, nay có nguy cơ vượt khỏi tầm tay. “Phải về ông Bảy Nghĩa ngay”, ông Tùng giục giã, rồi nói với hai thanh niên đi rừng:” Các cậu ở lại đây chờ chúng tôi một tí, để xác minh lại”.

Trong đám người ở đó, có một chú bé là cháu nội ông bảy Nghĩa, dẫn chúng tôi đi. Ông Bảy đã già nhưng vẫn còn rắn chắc lắm! Đúng là dân vùng ven núi. Nghe ông mô tả ngôi mộ thì thấy hoàn toàn khớp với dữ liệu đã thu được. “Lần đầu tiên tôi thấy ngôi mộ là năm 1954. Gần nhất, cách đây khoảng 7-8 tháng vẫn thấy còn”, ông Bảy nói. Cả đoàn cùng ông Bảy trở ra gốc cây mít. Hai vị cựu binh cũng đã xuống và đang ngồi nghỉ. Qua nguồn tin của hai thanh niên đi rừng, ông Bảy khẳng định ngôi mộ ông biết ở chỗ khác. “Phải đường lên mộ đây không?”, ông Nhu vừa hỏi, vừa chỉ tay lên con đường khi sáng. “Không phải núi này. Ở phía Bắc cơ!”, ông Bảy bảo: “Khi ấy đã quá giờ ngọ. Xe chúng tôi quay đầu về hướng Bắc. Tới một xóm dân cư thưa thớt, tất cả xuống xe đi bộ khoảng 3km về hướng Tây”. Lại vượt đèo với độ dốc chừng 50 độ. Nắng vẫn như thiêu đốt. Cả đoàn mệt nhoài. Ông Mệnh từ sáng tới giờ do vận động quá nhiều nên vừa đi vừa than vãn: “Anh Vu ơi! Anh ở đâu? Chúng tôi mệt quá!” Chợt ông Mệnh hăng hái, mắt sáng quắc: “Có lẽ núi Dốc Gáo đây rồi. Đúng núi Dốc Gáo”. Ông chạy vượt nhanh lên trước: “Chính chỗ này, mỗi lần hành quân về chúng tôi thường ngồi nghỉ”.

Ông Mệnh phăng phăng cắt rừng về bên phải. Ông Bảy cũng cắt rừng theo hướng đó, rồi đi thẳng và chỉ tay: “Đây này!” Cả đoàn chúng tôi cùng lặng đi. “Đúng mộ anh Vu rồi! Anh thắp hương van vái đi”, ông Mệnh mừng rỡ nói với ông Tùng.

Sau hai giờ đồng hồ ông Mệnh cùng ông Tâm đi kiểm tra lại các vật chuẩn, toàn đoàn họp lại ở dốc đèo để kết luận: “Đúng một trăm phần trăm”, ông Mệnh nói chắc mẩm. Lễ cúng cáo và tưởng niệm. Ông Mệnh đóng một cột mốc ở phía Mam, và một cột bên kia đường cách ngôi mộ 8 mét.

*

Sau 10 ngày kể từ khi tìm ra ngôi mộ, chờ anh em tề tựu đông đủ, đoàn chúng tôi lại từ TP Hồ Chí Minh trở lại Nha Trang, về Đồng Bò. Vẫn một buổi sáng sương mù dày đặc. Chúng tôi tiếp tục leo núi. Càng gần đến nơi, mọi người càng hồi hộp, nhất là những người em của liệt sỹ. Lễ cúng cáo. Chờ cho hương tàn. Đúng 9 giờ 50 phút sáng, nhát cuốc đầu tiên bổ xuống. Mọi người im lặng đợi chờ... Đào đến độ sâu khoảng 60cm, xuất hiện một chiếc răng, đất thủng xuống một lỗ. Sâu chút nữa, nhìn thấy hộp sọ. Những lời buột miệng đầy xúc động. Ông Tùng khóc thành tiếng. Tiếp tục thấy xương tay, xương chân... Bộ hài cốt còn nguyên vẹn đến cả hàm răng - vượt ngoài dự kiến.

*

Tại Nghĩa trang Liệt sĩ huyện Phong Điền tỉnh Thừa Thiên Huế, với sự có mặt của đại diện UBND, UBMTTQ, Ban Chỉ huy Quân sự huyện, buổi lễ trang nghiêm được cử hành. Những người lính bồng súng chào vĩnh biệt...

Bó hương cháy đã gần tàn. Ông Dũng vẫn đứng cúi đầu trước mộ anh mình: “Thế là anh đã trở về với mảnh đất quê hương. Hãy yên nghỉ ngàn thu, anh nhé! Chẳng có gì hơn, một nắm hương nguyện cầu cho anh, thế thôi, chừng đó cũng đủ thiêng liêng cao quý cho một kiếp người anh nhỉ?...”

Việt Hùng
ĐÁNH GIÁ
Hãy trở thành người đầu tiên đánh giá cho bài viết này!
  Ý kiến bình luận

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

“Thừa Thiên Huế - Hành trình và khát vọng”

Đó là chủ đề của Trại sáng tác văn học, nghệ thuật do Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy phối hợp với Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật tỉnh khai mạc sáng 15/4 tại làng cổ Phước Tích, xã Phong Hòa (Phong Điền).

“Thừa Thiên Huế - Hành trình và khát vọng”
Ba luôn ở bên con

Một sớm mùa thu, tôi rẽ sương cũng mẹ đi vào lối vắng. Ở nơi đây, cảnh vật thường xuyên thay đổi, dù một năm mẹ con tôi đến những bốn, năm lần. Sự thay đổi ấy ứng với từng mùa, khi những hàng cây thi nhau lột xác, lũ chim chóc thay lời ca tiếng hát, mây trời và làn nước cũng thường biến đổi sắc màu theo từng tháng năm. Ở nơi đó, bên một dòng sông nhỏ có một khoảnh đất là nơi yên nghỉ của ba tôi. Thời gian thấm thoắt thoi đưa, thoáng chốc ngày ba từ giã cõi đời cũng đã ngót nghét gần mười năm. Mười năm đó, từ nỗi đau tận cùng đến đau đáu khôn nguôi, trong mẹ con tôi đã chuyển thành tĩnh lặng thương yêu.

Ba luôn ở bên con
Từ chuyến phượt khám phá làng Vân...

Gần đây, phượt trở thành trào lưu và sở thích của rất đông bạn trẻ. Xu hướng phượt không đơn thuần chỉ là trải nghiệm các cung đường khó hay khám phá văn hóa, vùng đất nơi mình đến mà còn kết hợp Teambuilding (xây dựng đội nhóm), các kỹ năng sinh tồn, đôi khi lồng ghép thêm hoạt động thiện nguyện.

Từ chuyến phượt khám phá làng Vân
Lão ngư kể chuyện đi biển

Những kinh nghiệm đi biển "xương máu" được truyền đời trong các gia đình ngư dân. Khi chưa có máy móc hiện đại, kinh nghiệm sóng nước là cứu cánh sinh kế của họ.

Lão ngư kể chuyện đi biển
Return to top