Tấm bảng học sinh màu trắng, đặt vụng về phía trước cửa một quán bún giò. Dòng chữ nhỏ, nguệch ngoạc, viết bằng bút xạ mảnh, ghi tên các món bán thêm mỗi ngày. Tôi thấy “kiểu cách” quán khá lạ nên tò mò bước vào, gọi thử một tô bún bò nồi. Bún được bưng ra, tôi tròn mắt ngạc nhiên vì cái gì cũng nhiều. Sợi bún, nước xáo đầy ắp, thơm lừng xộc lên mũi; thịt bò miếng nào ra miếng nấy, vừa bự vừa dày, được hầm thật mềm; rau sống tươi rói đầy một chiếc rổ nhỏ cho mỗi phần ăn; đã thế, dì còn cho thêm huyết và chả heo. Vậy mà, chỉ có hai mươi ngàn đồng.

Thực đơn của quán rất phong phú với bánh xèo, bún hến, bánh lọc, bánh bèo, bún chay, cháo đậu, bún mắm nêm, bún thịt nướng… thay đổi mỗi ngày; chẳng khác gì “tổ hợp” ẩm thực xứ Huế. Mà món nào dì cũng bỏ tâm sức vào làm cho thật hấp dẫn. Vui vì tìm được một quán ăn gần nhà vừa ngon lại vừa rẻ, gia đình tôi từ đó trở thành khách hàng thân thiết. Cái tính hào phóng đậm chất miền Tây của dì vẫn luôn khiến tôi bất ngờ.

Nhớ có lần mẹ tôi ra mua bún, vừa mới bước chân ra khỏi quán thì nghe tiếng dì gọi lại, dì mở cà mèn và khuyến mãi thêm một miếng thịt bò thật to. Lần khác tôi đến mua bún chay, con gái phụ dì bỏ chao vào cà - mèn của tôi. Tôi thấy nhiều quá định bảo chị bé bớt lại thì nghe tiếng dì “mắng”: “Cái con ni, bỏ ít ri răng họ ăn”. Rồi dì múc thêm cho tôi một muỗng lớn. Bún hến dì làm không còn khiến thực khách phải “đãi cát tìm vàng” với những con hến ú nu, được tẩm ướp rất đậm đà, đến nỗi các quán bún hến xung quanh phải lườm nguýt vì dì cả gan phá giá.

Vóc người dì nhỏ bé, tuổi cũng đã ngấp nghé năm, sáu mươi nhưng dì làm việc không ngừng nghỉ, ngày chỉ ngủ vài tiếng. Dì nói bán rẻ, lời ít cũng được, miễn khách đông, khách vui là dì vui. Từ nhỏ đến giờ lao động nặng quen rồi nên giờ ít làm việc dì buồn tay, buồn chân lắm. Cơm áo gạo tiền và niềm đam mê ẩm thực, khám phá cái mới là động lực cho dì “cống hiến”. Khách hàng ai cũng thương mến dì, có người còn chân thành góp ý, mong dì biết lượng sức một chút để có thể duy trì quán lâu dài.

O ngồi trên chiếc đòn với một rổ đầy xôi bắp, xôi đậu, bắp trái, môn sáp, sắn… Hàng của o có lẽ là những món no lâu và rẻ tiền nhất Huế. Chỉ năm ngàn đồng cho một gói xôi đậu đỏ, đậu đen…; thêm mấy ngàn khoai, sắn hay môn sáp vàng là no ứ hự. Bắp, sắn đều do o trồng ở vườn nhà, nấu lên rồi đem đi bán. Ngày nào tôi đi ngang qua cũng thấy o ngồi ở đó, trời nắng thì cái nón, trời mưa o trú dưới mái hiên, lấy tấm ni lông cũ che chắn cho “bầy” khoai sắn.

Tôi thích cái tính đon đả mà thật thà, giọng nói dễ thương, hiền lành và tràn đầy năng lượng tích cực của o. Vào nghề đã lâu nên thao tác của o cực kì nhanh nhẹn. Hồi bé, tôi cứ thích nhìn o bào ổ khoai, đậu xanh một cách điêu luyện, dùng cái chén sứ nhỏ xíu múc xôi bắp hay thoăn thoắt bọc gói đậu phộng, mè, đường chỉ bằng một miếng nilon nhỏ. Con trẻ vẫn thường ngưỡng mộ những điều giản dị như thế.

Mấy o, dì lời có là bao, chủ yếu lấy công làm lãi. Mấy o, dì sống vì niềm vui, vui vì được làm công việc mình yêu thích, vui vì được thấy quán xá mình luôn tấp nập, vui vì thấy thực khách thưởng thức món ăn một cách ngon lành, được nghe những lời khen ngợi chân thành, vui vì có chút đồng ra đồng vào.

Vui vì biết thế nào là đủ!

THỤC ĐAN