Ngày 23/12/2009, T.Đ.T. ký kết hợp đồng tư vấn tài chính với Công ty TNHH Bảo hiểm nhân thọ Dai-ichi Việt Nam (gọi tắt là Công ty Dai-ichi).

Ngày 20/2/2012, T. ký kết hợp đồng nhận ủy quyền làm đại lý bảo hiểm cho Công ty Dai-ichi (hợp đồng này thay thế hợp đồng ký kết ngày 23/12/2009).

Ngày 1/10/2013, trên cơ sở hợp đồng đại lý đã ký kết, T. tiếp tục ký kết hợp đồng đại lý bổ sung với Công ty Dai-ichi, với nội dung nhận làm trưởng nhóm kinh doanh theo sự chỉ định của công ty.

Theo nội dung nhận ủy quyền trong hợp đồng đại lý và hợp đồng đại lý bổ sung, T. được ủy quyền giới thiệu, chào bán các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ; thu xếp hỗ trợ Công ty Dai-ichi trong giao kết hợp đồng bảo hiểm; thu phí bảo hiểm từ khách hàng và nộp lại cho Công ty Dai-ichi theo quy định; có trách nhiệm tìm kiếm đề cử các ứng cử viên để công ty xem xét tuyển dụng làm đại lý bảo hiểm; chịu trách nhiệm về hoạt động của nhóm kinh doanh; chịu trách nhiệm kiểm soát và đảm bảo đại lý của nhóm tuân thủ quy định về thu phí.

Trong thời gian từ năm 2011 đến năm 2019, T. đã ký kết hợp đồng bảo hiểm với 156 khách hàng trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. Từ năm 2011 đến năm 2014, T. tiến hành thu phí bảo hiểm của khách hàng và chuyển về cho Công ty Dai-ichi đúng quy định.

Tuy nhiên, từ năm 2015 đến 2019, sau khi thu phí bảo hiểm từ khách hàng, T. đã không chuyển đầy đủ về Công ty Dai-ichi mà chiếm đoạt. Căn cứ vào tài liệu điều tra, kết quả đối chiếu giữa khách hàng, Công ty Dai-ichi, T. đã thừa nhận thu phí bảo hiểm của 150 khách hàng với tổng số tiền 1.772.544.400 đồng, nhưng chỉ nộp về cho Công ty Dai-ichi số tiền là 247.839.800 đồng. Còn lại 1.505.752.600 đồng T. chiếm đoạt và sử dụng vào mục đích cá nhân.

Cụ thể: Từ năm 2015 đến năm 2017, T. đã thu phí của 7 khách hàng với tổng số tiền là 82.025.000 đồng, nhưng chỉ nộp về cho Công ty Dai-ichi số tiền 33.625.000 đồng. Còn lại 48.400.000 đồng T. chiếm đoạt (hành vi này bị quy kết vào tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”).

Từ năm 2018 đến năm 2019, T. đã thu phí của 149 khách hàng với tổng số tiền là 1.690.519.400 đồng; nộp về cho Công ty Dai-ichi số tiền là 214.214.800 đồng. T. giữ lại chiếm đoạt 1.457.352.600 đồng (hành vi này bị quy kết vào tội “tham ô tài sản”).

Sự việc chiếm đoạt nêu trên của T. bị phát hiện. Công ty Dai-ichi đã trình báo Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh giải quyết. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh đã tiến hành kê biên 1 căn nhà và thửa đất của vợ chồng T. tại phường An Hòa, TP. Huế và giao cho vợ T. quản lý.

Sau khi phát hiện đại lý T.Đ.T. chiếm đoạt tiền thu phí của 150 khách hàng, Công ty Dai-ichi đã trực tiếp thỏa thuận, công nhận đóng đủ số tiền phí bị T. chiếm đoạt cho tất cả các khách hàng này. Vì vậy, quyền lợi của những khách hàng liên quan trong vụ án không bị ảnh hưởng và những người này không có yêu cầu gì khác. Công ty Dai-ichi yêu cầu T. bồi thường số tiền 1.505.752.600 đồng để khắc phục hậu quả.

Từ nhỏ T. ở với cha mẹ, đi học, tốt nghiệp THPT, sau đó thực hiện nghĩa vụ quân sự. Sau khi ra quân, về làm công nhân tại địa phương, T. tiếp tục nỗ lực thi đỗ và đi học đại học. Từ năm 2009 tham gia làm tư vấn, đại lý bảo hiểm cho Công ty Bảo hiểm nhân thọ Dai-ichi Việt Nam tại tỉnh Thừa Thiên Huế. Thật đáng tiếc, cuộc sống lương thiện, bình thường bị chính hành vi vi phạm pháp luật của bản thân phá hỏng. Đây là lời “nhắc nhở” cho tất cả mọi người trong mọi hoàn cảnh đều phải nghiêm túc chấp hành pháp luật.

Quỳnh Anh