Nghĩa trang Liệt sĩ Lộc Bổn, nơi an táng Liệt sĩ Nguyễn Văn Quyển, Phạm Thạch

Trên Báo Thừa Thiên Huế, tôi đã có dịp trình bày về tấm gương lẫm liệt của Thiếu tá Võ Đại An, Tham mưu trưởng Trung đoàn 4 Quân khu Trị Thiên Huế tại phía bắc rừng Bạch Mã cuối năm 1969. Khi quân đội Mỹ dùng máy bay truy bắt, chính ông là người đầu tiên dùng cây súng ngắn K.59 bắn trả. Ông chấp nhận hy sinh chứ nhất quyết không để sa vào tay giặc.

Về Phú Lộc những ngày này, gặp những cựu chiến binh năm xưa, nghe chuyện mới thấm và cảm phục tấm lòng trung thành của những người con quê hương đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất giang sơn để trân quý những gì mà đất nước có được hôm nay. Những trường hợp dưới đây, chỉ tập trung vào thời khắc sinh tử khi nhiều cán bộ, chiến sĩ đứng trước hoàn cảnh nghiệt ngã buộc họ phải lựa chọn là đầu hàng hay tử tiết! Thực tiễn cho thấy, phần lớn trong số họ đã lựa chọn hy sinh để giữ gìn khí tiết của người Cộng sản!

Theo lời của ông Phan Văn Dần, trú tại xã Thủy Phù (thị xã Hương Thủy) và ông Nguyễn Xuân Hoành trú tại xã Lộc Vĩnh (huyện Phú Lộc) vào thời điểm mà liệt sĩ Phạm Hữu Xuân hy sinh, 2 ông đều là chiến sĩ của Đội Công tác vũ trang Phú Lộc có nhiệm vụ  bảo vệ các đồng chí lãnh đạo thâm nhập đồng bằng xây dựng lực lượng, hỗ trợ Nhân dân nổi dậy phá ấp chiến lược do Mỹ yểm trợ và chế độ Ngô Đình Diệm dựng lên.

Rạng sáng 23/9/1963 (tức là ngày 8/8 ÂL), trời mưa to, Đội công tác Phú Lộc có 5 người đang trên đường trở về hậu cứ khe Ong, phía tây xã Lộc Thủy. Khi đến dốc khe nước đổ tiếp giáp giữa thôn Thủy Yên - Thủy Cam, có thể do bị chỉ điểm nên địch đã để 2 chiến sĩ dẫn đường là Nguyễn Thanh Hiếu, Nguyễn Xuân Hoành đi qua và đợi đồng chí Phạm Hữu Xuân ( bí danh Hoàng Biên) đi đến mới bắn! Ông Phan Văn Dần là người thứ 4 đi sau nghe tiếng súng nổ vội tìm nơi ẩn nấp.

Khi phát hiện từng tốp lính bảo an từ những bụi rậm lao ra chặn đường, linh tính báo cho ông biết “Thủ trưởng mình bị phục kích rồi”! Sau tiếng súng là lời kêu gọi đầu hàng của địch: “Bỏ súng xuống”. “Hàng sống, chống chết!”. Thay bằng đầu hàng là tiếng súng đáp trả rồi im bặt. Từ nơi ẩn nấp, ông Phan Văn Dần quay lui tìm ông Nguyễn Văn (Tỉnh ủy viên được phân công chỉ đạo Phú Lộc) và báo tin dữ, rằng “Anh Biên đã bị rơi vào ổ phục kích”.

Sau đó, từ nơi ẩn nấp, hai người đau xót chứng kiến cảnh địch kéo lê xác đồng đội  mình lôi xuống dốc.

Sự hy sinh cao cả của Chính trị viên Huyện đội Phú Lộc trở thành tấm gương cho cán bộ, chiến sĩ noi theo.

Phạm Thạch là một trong những thiếu niên được ông Phạm Hữu Xuân và những cán bộ bám trụ ở xã Hưng Lộc (nay là xã Lộc Bổn) giác ngộ. Năm 1962, ông Thạch thoát ly khi tròn 16 tuổi. Trong 3 năm tham gia Đội công tác Hưng Lộc, ông Phạm Thạch là một trong những chiến sĩ gan dạ. Ông đã cùng đồng đội tham gia nhiều trận đánh ở Nong và phá thế kềm kẹp của địch, hỗ trợ Nhân dân xã Lộc Bổn nổi đậy làm chủ xóm làng.

Rạng sáng ngày 17/6/1965 (tức 18/5 ÂL), trên đường dẫn Đội công tác  trở về hậu cứ ở vùng La Ngà - Bến Ván, khi đến mõm đồi hoang nằm ở phía đông “miễu Ngói” của thôn I, gần bờ sông Nong, ông bị rơi vào ổ phục kích. Nhờ thông thuộc địa hình nên dù chỉ một mình ông luồn lách bắn trả kìm chân địch, tạo điều kiện cho đồng đội đi sau chạy thoát. Sau hơn một giờ chiến đấu, tiếng súng đã ngưng địch kêu gọi ông đầu hàng. Không gian yên ắng, địch tiến hành lùng sục thì bất ngờ một tiếng nổ lớn vang lên. Từ nơi ẩn nấp, ông Phạm Thạch đã dùng quả thủ pháo cuối cùng tự sát. Chàng trai trẻ của làng An Nong hy sinh gây xúc động mạnh, để lại dấu ấn khó phai trong lòng Nhân dân.

Trước ông Phạm Thạch, ở quê ngoại tôi còn có tấm gương hy sinh lẫm liệt của liệt sĩ  Nguyễn Văn Quyển. Ông Nguyễn Văn Quyển là trung đội trưởng QĐNDVN thuộc Trung đoàn 270 (Liên khu IV) tăng cường cho miền Nam. Cuối năm 1963, sau khi chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, phần lớn nông thôn do cách mạng làm chủ nên ông Nguyễn Văn Quyển được đơn vị cho về thăm nhà ở thôn 4, xã Lộc Bổn. Ngày 20/12/1963 (tức ngày 5/11 ÂL), đang ăn trưa thì ông Quyển phát hiện phía bờ tre bên kia bàu ruộng xuất hiện từng tốp lính đang triển khai đội hình xâm nhập.

Sau khi dặn vợ là bà La Thị Sâm đưa 2 đứa con trai tìm nơi ẩn nấp và chỉ đường cho đồng đội rút chạy (trong số này có ông Ngọc, quê Phù Bài, cán bộ Thành ủy Huế), ông tìm nơi cố thủ sẵn sàng chiến đấu. Từ ngoài cửa ngõ, chúng kêu gọi ông đầu hàng. Súng nổ, tiếng khóc vang lên. Lợi dụng tình cảnh đó, địch tiếp tục kêu gọi: “Muốn sống với vợ con, hãy bỏ súng xuống”. Tưởng ông mềm lòng, nào ngờ vừa ra khỏi nhà ông đã giật thủ pháo tự vẫn! Cả trung đội nghĩa quân bàng hoàng trước hành động ấy. Im tiếng súng, Nhân dân đến xem. Nhìn người vợ trẻ và  hai đứa con trai, đứa út mới 9 tuổi, Nhân dân vô cùng thán phục tấm gương vì nước quên thân của liệt sĩ Nguyễn Văn Quyển.

Những tấm gương vừa nêu, chỉ xuất hiện khi đứng giữa làn ranh sinh tử và họ đã chọn cái chết chứ nhất quyết không làm ô danh người Cộng sản.

Họ thật sự là người tận trung, tận hiếu với Dân, với Đảng.

Bài, ảnh: Phạm Hữu Thu