Tăng trưởng kinh tế châu Á bắt đầu có dấu hiệu chững lại do nhiều tác động. Ảnh minh hoạ: AFP/TTXVN

Theo cảnh báo của IMF, các chính sách thương mại không chắc chắn và các hạn chế thương mại có thể làm ảnh hưởng đến sản lượng toàn cầu, và tác động của chúng đối với châu Á thậm chí có thể còn nghiêm trọng hơn do vai trò quan trọng của khu vực này trong sản xuất và thương mại toàn cầu.

Từ đó, IMF đã cắt giảm dự báo tăng trưởng của châu Á-Thái Bình Dương xuống còn 4,0% trong năm nay và 4,3% trong năm tới, lần lượt giảm 0,9 và 0,8 điểm phần trăm so với dự báo trong Triển vọng Kinh tế Thế giới tháng 4/2022. Đây được xem là sự sụt giảm đáng kể sau khi khu vực này tăng trưởng 6,5% trong năm 2021.

Báo cáo cho biết: “Khi ảnh hưởng của đại dịch suy yếu, khu vực phải đối mặt với những cơn gió ngược mới từ việc thắt chặt tài chính toàn cầu và nhu cầu bên ngoài dự kiến ​​sẽ chậm lại”.

Hầu hết các nền kinh tế trong khu vực ước tính sẽ giảm tốc hơn nữa vào năm 2023, trong khi lạm phát dự kiến ​​sẽ đạt đỉnh vào cuối năm 2022, do giá hàng hóa toàn cầu giảm. Theo phân tích của IMF, rủi ro đối với triển vọng tăng trưởng của khu vực này bắt nguồn từ sự kết hợp của ba cơn gió ngược.

Không chỉ là khu vực gửi tiết kiệm nhiều nhất, châu Á hiện là con nợ lớn nhất trên thế giới, và một số quốc gia có nguy cơ lâm nợ cao.

Ông Krishna Srinivasan, Giám đốc IMF khu vực châu Á - Thái Bình Dương cho biết: “Các khoản nợ công và tư nhân đã trở nên tồi tệ hơn sau đại dịch vì tốc độ tăng trưởng chậm hơn và mức nợ cao hơn”.

Ông cảnh báo rằng sự mất giá và lãi suất tăng có thể làm lộ ra các lỗ hổng tài chính, đồng thời làm tăng tỷ lệ nợ công. Để kiềm chế lạm phát gia tăng, các chính sách tiền tệ sẽ cần tiếp tục được thắt chặt, ngoại trừ ở Trung Quốc và Nhật Bản.

Vết sẹo kinh tế do đại dịch COVID-19 dự kiến ​​sẽ còn tồi tệ hơn ở châu Á - Thái Bình Dương.

“Phần lớn sự sụt giảm tăng trưởng ở châu Á so với các khu vực khác có thể được giải thích là do mức đầu tư thấp hơn sau đại dịch. Những thiệt hại này cũng đặc biệt nghiêm trọng ở các nền kinh tế phụ thuộc vào du lịch và những nước có nợ cao”, ông Srinivasan nói, và cho biết thêm rằng việc giải quyết nợ công và giảm thiểu thiệt hại về vốn nhân lực sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với nhiều quốc gia trong khu vực.

Một kịch bản phân mảnh rõ nét hơn, trong đó thế giới chia thành các khối thương mại riêng biệt, sẽ dẫn đến tổn thất sản lượng lớn và lâu dài. 

Ngay cả khi không có các hạn chế thực tế, sự không chắc chắn về chính sách thương mại có thể gây ra những hậu quả kinh tế vĩ mô bất lợi trong ngắn hạn. Một cú sốc điển hình đối với sự không chắc chắn trong chính sách thương mại, như năm 2018 do căng thẳng thương mại Mỹ-Trung, đã làm giảm đầu tư khoảng 3,5% sau 2 năm.

Tác động đối với châu Á có thể sẽ “đặc biệt nghiêm trọng”, do vai trò quan trọng của khu vực trong sản xuất và thương mại toàn cầu. Chỉ riêng những thiệt hại do năng suất thấp hơn cũng có thể làm giảm sản lượng trong khu vực tới 3,3 điểm phần trăm. Tổng thiệt hại có thể còn lớn hơn nhiều do đầu tư sụt giảm khi các doanh nghiệp mất khả năng tiếp cận thị trường xuất khẩu.

Ngoài ra, IMF cho rằng trong số những khó khăn lớn nhất mà khu vực châu Á-Thái Bình Dương phải đối mặt là sự suy thoái kinh tế nhanh chóng và trên diện rộng của Trung Quốc, do tác động từ các đợt bùng phát COVID-19 và thị trường bất động sản nhiều biến động của nước này.

IMF dự kiến ​​tăng trưởng của Trung Quốc sẽ chậm lại còn 3,2% trong năm nay, hạ 1,2 điểm phần trăm so với dự báo hồi tháng 4, sau khi tăng mạnh lên mức 8,1% trong năm 2021. Nền kinh tế lớn thứ hai thế giới được dự báo sẽ tăng trưởng nhẹ lên 4,4% trong năm tới và 4,5% trong năm 2024.

BẢO NGHI (Lược dịch từ Business Times & CNA)