TAND TP. Huế thụ lý giải quyết vụ án dân sự “tranh chấp đòi lại tài sản”. Nguyên đơn là ông VH. Bị đơn là bà TH. Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn, lời trình bày của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa thì: Năm 2005, ông VH là Việt kiều đang sinh sống và làm việc tại Mỹ. Khi đó chưa có quốc tịch Việt Nam, nên ông VH đã nhờ bà TH, đứng tên mua giúp căn hộ tại TP. Hà Nội.
Ông VH đã chuyển tiền cho bà TH 11 lần từ Mỹ vào hai tài khoản mở tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), số 198 Trần Quang Khải, Hà Nội với tổng số tiền 51.000 USD (trong đó 3 lần chuyển khoản vào tài khoản của bà TH và 8 lần chuyển khoản vào tài khoản chung của ông VH bà TH).
Ngày 24/5/2006, bà TH đã làm thủ tục mua căn hộ tại TP. Hà Nội. Sau khi bà TH nhận căn hộ này, ông VH đã chi phí tiền để trang trí nội thất với tổng số tiền là 48.212.000 đồng. Ông VH đã nhiều lần yêu cầu bà TH đăng ký quyền sở hữu của ông VH với căn hộ, để ông VH đăng ký hộ khẩu và làm chứng minh nhân dân tại Hà Nội, nhưng bà TH không thực hiện yêu cầu của ông VH. Ông VH đã nhiều lần gọi điện, nhắn tin qua số điện thoại, Zalo, Viber về việc bà TH phải trả căn hộ mà bà đã mua giúp ông VH, nhưng bà TH không trả lời.
Do đó, ông VH khởi kiện yêu cầu bà TH phải trả lại cho ông: Số tiền 51.000 USD (mà ông đã chuyển cho bà để mua căn hộ); quy ra VND là 1.175.550.000 đồng và tiền lãi của số tiền gốc nêu trên, là 1.828.568.025 đồng. Tổng tiền gốc và tiền lãi: 3.004.118.025 đồng.
Ông VH cũng yêu cầu bà TH trả lại số tiền chi phí trang trí nội thất căn hộ là 48.212.000 đồng (sau đó tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn chỉ yêu cầu bà TH trả cho ông VH số tiền chi phí trang trí nội thất căn hộ là 46.612.000 đồng). Đồng thời, yêu cầu bà TH trả lại số tài sản bà đang giữ của ông VH gồm: 1 nhẫn bằng vàng trị giá 13 triệu đồng; 1 tượng Phật bà Quan âm, trị giá 20 triệu đồng; 1 máy quay phim, chụp hình trị giá 11.525.000 đồng. Tổng trị giá 3 hiện vật là 44.525.000 đồng…
Người đại diện theo ủy quyền của bà TH trình bày: Bà TH và ông VH có quan hệ tình cảm; sống chung với nhau từ năm 2004 đến năm 2014. Trong thời gian này, bà TH và ông VH còn cùng làm việc chung trong quỹ United States - Vietnam Foundation (USVNF). Đến năm 2014, bà TH và ông VH mâu thuẫn về tình cảm, nên chấm dứt quan hệ tình cảm với nhau.
Đối với căn hộ tại Hà Nội, phía bị đơn cho rằng là của bà TH, do bà mua lại của ông Trương Văn Khang và bà Nguyễn Thị Mùi. Tài khoản chuyển tiền tại Mỹ là tài khoản của bà TH; ông VH chỉ là người xin đứng thêm tên để tiện chuyển tiền về Việt Nam. Trong quá trình làm tại quỹ USVNF, bà TH và ông VH sử dụng tài khoản cá nhân của bà TH và tài khoản đồng sở hữu cả hai người, tại Vietcombank, để nhận các khoản tiền được chuyển từ tài khoản của bà TH tại Mỹ, mà được các tổ chức, cá nhân hỗ trợ cho những hoạt động và việc học của bà tại Mỹ, cùng với tiền ông VH chuyển về để chi cho các hoạt động thiện nguyện, chi phí đi công tác của quỹ và chi phí đi lại, sinh hoạt của ông VH khi về Việt Nam. Do đó, về khoản tiền 51.000 USD mà ông VH khởi kiện, cho rằng đó là tiền ông gửi về nhờ bà TH mua nhà, là không có căn cứ; bà TH không chấp nhận.
Theo phía bị đơn, nội thất trong căn hộ nói trên cũng là của bà TH bỏ tiền ra mua. Bà TH không hề giữ nhẫn, tượng Phật bà Quan âm, máy quay phim, chụp hình, như khởi kiện của ông VH.
Tại phiên tòa sơ thẩm, TAND TP. Huế đã chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bà TH phải trả cho ông VH số tiền 1.173.083.650 đồng (tiền mua nhà); không chấp nhận việc nguyên đơn đòi bị đơn trả tiền lãi, tiền trang trí nội thất, trị giá nhẫn vàng, tượng Phật, máy ảnh… tổng cộng 1.922.171.375 đồng.
Tuy nhiên, cả bên nguyên đơn và bị đơn đều có kháng cáo. Bị đơn không đồng ý với việc tòa án cấp sơ thẩm buộc bà trả cho nguyên đơn số tiền 1.173.083.650 đồng; đề nghị cấp phúc thẩm tuyên bác nội dung này. Phía nguyên đơn lại yêu cầu tòa án cấp phúc thẩm buộc bị đơn phải trả cho ông VH khoản tiền lãi là 1.828.568.025 đồng và khoản tiền trang trí nội thất căn hộ là 46.612.000 đồng. Tổng cộng cả hai khoản là 1.875.180.025.
Như vậy, vụ tranh chấp về tài sản giữa hai người đã từng chung sống như vợ chồng, tiếp tục kéo dài, chờ sự phán quyết của cấp phúc thẩm. Những người làm công tác xét xử chia sẻ, trong trường hợp hai bên có đăng ký kết hôn theo quy định, sẽ được pháp luật hôn nhân & gia đình bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp. Khi ra tòa ly hôn, tài sản tạo dựng trong thời kỳ hôn nhân sẽ được xác định là tài sản chung của vợ chồng; được phân chia theo luật quy định.
Đó cũng là “lời nhắc nhở” mọi người luôn tuân thủ pháp luật nói chung, pháp luật hôn nhân & gia đình nói riêng, để tránh xảy ra những tranh chấp kéo dài, gây bất ổn trong cuộc sống.