Thuốc kháng virus Molnupiravir là một trong những phương pháp điều trị sớm nhất được triển khai trong thời kỳ đại dịch COVID-19. Ảnh minh họa: SH/Dantri 

Thuốc kháng virus Molnupiravir của hãng dược phẩm Merck là một trong những phương pháp điều trị sớm nhất được triển khai trong thời kỳ đại dịch nhằm ngăn chặn tình trạng COVID-19 trở nên nghiêm trọng hơn ở những người dễ bị tổn thương.

Loại thuốc này được dùng bằng đường uống trong thời gian 5 ngày, hoạt động chủ yếu bằng cách tạo ra các đột biến ở virus với mục tiêu làm suy yếu và tiêu diệt virus.

Tuy nhiên, một nghiên cứu mới do Vương quốc Anh dẫn đầu đã chỉ ra rằng Molnupiravir “có thể tạo ra các loại virus đột biến đáng kể mà chúng vẫn có thể tồn tại”, tác giả chính của nghiên cứu Theo Sanderson cho biết. Mặc dù vậy, nhà di truyền học Sanderson nhấn mạnh rằng không có bằng chứng nào cho thấy “Molnupiravir đến nay đã tạo ra nhiều loại virus dễ lây truyền hơn hoặc độc hại hơn”.

Ông nói thêm rằng không có biến thể nào lan rộng khắp thế giới là do thuốc.

Tuy nhiên, “rất khó để dự đoán liệu việc điều trị bằng Molnupiravir có khả năng dẫn đến một biến thể mới lưu hành rộng rãi mà mọi người không có khả năng miễn dịch trước đó hay không”.

Với nghiên cứu vừa được công bố trên tạp chí Nature, các nhà nghiên cứu đã sàng lọc cơ sở dữ liệu của hơn 15 triệu trình tự bộ gen của SARS-CoV-2, loại virus gây ra COVID-19.

Các nhà nghiên cứu đã sử dụng dữ liệu này để theo dõi những thay đổi về cách thức virus biến đổi trong đại dịch, tìm ra một “dấu hiệu đột biến” cụ thể ở những bệnh nhân mà họ tin rằng có liên quan đến Molnupiravir.

Nghiên cứu cho thấy vào năm 2022, khi loại thuốc này được kê đơn với số lượng lớn, số bệnh nhân có dấu hiệu mắc virus đột biến đã tăng lên đáng kể.

Dấu hiệu này thường được tìm thấy nhiều hơn ở các quốc gia nơi thuốc Molnupiravir được kê đơn rộng rãi, chẳng hạn như Mỹ, Anh, Australia và Nhật Bản. Trong khi ở những quốc gia mà loại thuốc này không được chấp thuận, bao gồm Canada và Pháp, điều đó hiếm hơn.

Ông Sanderson cho biết các nhà nghiên cứu đã sử dụng một số bằng chứng độc lập để xác định một cách chắc chắn rằng Molnupiravir tạo ra dấu hiệu đột biến nói trên. Các bằng chứng đó bao gồm một phân tích riêng về dữ liệu điều trị ở Anh, cho thấy hơn 30% các trường hợp có “dấu hiệu đột biến” liên quan là ở những người đã dùng Molnupiravir. Tuy nhiên, chỉ 0,04% người dân ở Anh được kê đơn thuốc trong năm 2022.

Cũng theo nhà di truyền học Sanderson, các loại thuốc điều trị COVID khác không hoạt động theo cách tương tự nên sẽ không gây ra những loại đột biến này.

Nhà virus học Stephen Griffin tại Đại học Leeds của Anh nhận định rằng đây là một “nghiên cứu cực kỳ quan trọng và được tiến hành tốt”. Một nhà virus học khác tại Đại học Nottingham cũng cho rằng nghiên cứu này thể hiện “mối liên hệ chặt chẽ” giữa Molnupiravir và sự lây lan hạn chế, không thường xuyên của các bộ gen đột biến cao.

Dù vậy, các chuyên gia đều nhấn mạnh rằng Molnupiravir không gây nguy hiểm cho những người đang dùng thuốc và cũng không kêu gọi loại bỏ hoàn toàn loại thuốc này.

Theo ông Griffin, Molnupiravir hiện đang được sử dụng “ngày càng ít” vì hiệu quả của nó đã giảm dần đối với những người được tiêm chủng nhưng không có nguy cơ mắc bệnh.

Ông nói thêm, mặc dù nghiên cứu hiện tại có thể dẫn đến việc Molnupiravir không còn được kê đơn nữa, nhưng “không nên loại bỏ nó và loại thuốc này vẫn có thể có giá trị nếu chúng ta sử dụng nó trong các dạng kết hợp thuốc”.

Doanh số bán Molnupiravir, được bán dưới nhãn hiệu Lagevrio, đạt 20 tỷ USD trong năm ngoái. Tuy nhiên, theo Merck, doanh số bán hàng đã giảm 82% trong quý II năm 2023 so với cùng kỳ năm ngoái.

TỐ QUYÊN (Lược dịch từ AFP)