Tết Nguyên tiêu là dịp các vua triều Nguyễn dâng cúng các miếu điện, bày tỏ sự kính ngưỡng trời đất, tổ tiên. (Trong ảnh: Một lễ tế dưới triều Nguyễn được Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế phục dựng) |
Tết Nguyên tiêu nghĩa là đêm rằm đầu tiên của năm mới, “nguyên” nghĩa là thứ nhất, “tiêu” nghĩa là đêm. Trong Tam Nguyên, tức ba ngày rằm lớn, như tết Trung nguyên – rằm tháng Bảy; tết Hạ nguyên – rằm tháng Mười; tết Nguyên tiêu còn gọi là tết Thượng nguyên. Dân gian có câu “Lễ quanh năm không bằng rằm tháng Giêng” để khẳng định tầm quan trọng của ngày lễ này trong tâm thức của người Việt.
Với số đông người theo phong tục thờ cúng gia tiên, vào rằm tháng Giêng, các gia đình thường làm những mâm cỗ chỉn chu dâng lễ, bày tỏ lòng tri ân và hiếu kính tổ tiên. Cả nhà tụ tập bên nhau, tận hưởng không khí ấm áp của mùa xuân sum vầy, bình yên bên gia đình. Bên cạnh đó, nhiều người còn đi lễ chùa, cầu mong một năm an lành.
Còn cách mà Hoàng cung xưa đón tết Nguyên tiêu – Rằm tháng Giêng, có nhiều khác biệt.
Vào ngày Tết Nguyên tiêu, triều đình nhà Nguyễn cho treo đèn suốt đêm ở nhiều nơi trong kinh thành. Nguồn: hueworldheritage. |
Theo An Nam chí lược của Lê Tắc – một trong những sử liệu cổ xưa nhất của Việt Nam (soạn vào khoảng nửa đầu thế kỷ 14), đêm Nguyên tiêu, triều đình nhà Trần dựng những cây đèn ở trên sân rộng gọi là “Quảng chiếu”, thắp đến mấy vạn ngọn, sáng rực trên trời dưới đất. Các vị sư đi xung quanh đèn tụng kinh phật, các quan đứng vòng quanh đèn làm lễ, gọi là “chầu đèn”.
Dưới triều Nguyễn, tết Nguyên tiêu được các vua rất coi trọng, việc tổ chức Tết cũng được định thành lệ (có thay đổi tùy vào điều kiện hoàn cảnh của mỗi thời).
Vào ngày 15 tháng Giêng, triều đình cho treo đèn suốt đêm ở nhiều nơi, Tử Cấm thành sáng như ban ngày, cỗ bàn được chuẩn bị tươm tất để dâng cúng các miếu điện. Bên cạnh đó, triều đình còn tổ chức lập đàn chay cầu phước, cúng phổ độ cho tôn thân có công với nước. Ngoài ra, các vua thường ngự giá đi chơi thưởng tiết, xem thả đèn trời, đốt cây bông.
Đề cập đến việc tổ chức Tết cũng được định thành lệ, sử liệu Đại Nam thực lục chính biên cho biết, tháng tám năm Ất Mùi, năm Minh Mệnh 16 (1835) xét thấy những ngày tuần tiết như: Thượng nguyên, Hạ nguyên, Trung nguyên người xưa cũng có cúng lễ, mà tục nước ta thật thà chất phác chưa cử hành được hết, vua đã dụ Nội các sai bộ Lễ tham bác, kiến nghị. Đến khi lời bàn dâng lên thì vua chuẩn định: từ nay, phàm những tiết Đông chí, Thượng nguyên, Trung nguyên và Hạ nguyên đều làm cỗ bàn dâng cúng các miếu và điện Phụng Tiên, lễ nghi như lễ tiết Đoan dương (duy có tiết Thượng nguyên, gặp ngày đản ở điện Phụng Tiên thì những lễ phẩm cứ chiếu theo lệ, bày đặt như cũ, không phải làm thêm cỗ bàn). Những tiết Thượng nguyên và Trung thu, thì treo đèn suốt đêm để nêu bật ngày Tết nhằm thời tiết đẹp.
Ngày nay, mâm cỗ chay ngày rằm tháng Giêng được các gia đình chuẩn bị với ý nghĩa cầu mong năm mới tốt lành (ảnh: Thu Hương) |
Vua Minh Mệnh còn cho lập đàn chay để cúng phổ độ cho những con dân đã chết, “tiết Thượng nguyên tháng Giêng, lập đàn chay trọng thể ở chùa Thiên Mụ, 21 ngày đêm cúng phổ độ linh hồn cho các tôn nhân xa gần đã quá cố”.
Dưới thời vua Thiệu Trị, việc tổ chức Tết Nguyên tiêu lại thay đổi theo hướng giảm các khoản lãng phí không cần thiết. Thậm chí vua còn bày tỏ thái độ không hài lòng khi trong ngày này treo đèn quá nhiều.
Sử liệu Đại Nam thực lục chính biên cho biết, Tết Nguyên tiêu năm Ất Tỵ, Năm Thiệu Trị thứ 5 (1845), thị vệ bộ Lễ theo lệ cũ, tâu lên xin chỉ thì vua bảo rằng: Tết Nguyên tiêu đời xưa gọi là Tết tốt, lúc ấy nhà nước nhàn rỗi, không ngại gì việc thưởng vui theo tục xưa, nhưng lòng ta lấy sự chăm lo làm chính, không lấy sự ăn chơi làm vui. Từ nay trở đi, các Tết lớn như Vạn thọ, Chính đán, Đoan dương, Đông chí, đều theo lệ làm việc; ngoài ra các tiết vui các mùa hàng năm, đều trước ngày ấy 4, 5 ngày, tâu lên đợi chỉ, không được nhất khái câu nệ lệ cũ, vì lệ cũ không phải là ý của ta.
Ngày nay, tuỳ thuộc vào văn hoá tín ngưỡng của mỗi vùng miền, cách đón rằm tháng Giêng có nhiều thay đổi theo cuộc sống hiện đại, nhưng luôn mang ý nghĩa cầu phúc, cầu mong năm mới tốt lành.