Bị cáo Trương Ngọc Tùng trước tòa |
Tòa án nhân dân tỉnh vừa xét xử sơ thẩm vụ án đối với bị cáo Trương Ngọc Tùng (SN 1991, trú phường Kim Long, TP. Huế) về tội “Tham ô tài sản” và tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Đây cũng là bài học cho các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp khi tuyển dụng nhân sự và quản lý nhân sự của mình, tránh sự việc “nuôi ong tay áo” đáng tiếc xảy ra.
Ngược thời gian về trước, sau khi thử việc, tháng 9/2018, Tùng được Công ty G. N. (một công ty kinh doanh các sản phẩm về sữa) phân công làm kế toán trưởng, phụ trách nghiệp vụ kế toán. Tùng có nhiệm vụ làm kế toán tổng hợp và kế toán thuế, kê khai nộp thuế, tổng hợp chứng từ và làm các thủ tục nhận nợ, rút tiền tại các ngân hàng mà Công ty G. N. có quan hệ giao dịch. Với mức lương tương đối cao và chế độ hậu hĩnh, thế nhưng Tùng vẫn rắp tâm tìm mọi cách để “rút ruột” của công ty.
Theo hồ sơ vụ việc, Công ty G. N. đã 2 lần vay Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam chi nhánh Huế (VCB Huế) tổng số tiền 47 tỷ đồng nên cam kết: Mỗi lần nhận tiền vay bên vay phải ký giấy nhận nợ, kèm theo các chứng từ, tài liệu chứng minh mục đích sử dụng tiền vay phù hợp với mục đích vay vốn, bên vay có thể nhận tiền vay nhiều lần nhưng đảm bảo mức dư nợ ở mọi thời điểm không vượt quá hạn mức tín dụng đã ký kết.
Tùng có trách nhiệm lập chứng từ, tài liệu, ủy nhiệm chi, giấy rút tiền, giấy nhận nợ, bảng kê lương... cho công ty. Lợi dụng chức năng, nhiệm vụ được giao và biết được các thủ tục cần làm khi vay và rút tiền, Tùng đã làm giả bộ chứng từ vay tiền của Công ty G. N. bằng cách tải mẫu “Chứng từ giao dịch - Giấy rút tiền”, “Giấy nhận nợ” do Ngân hàng VCB Huế cung cấp, rồi điền các thông tin của công ty và số tiền dự định sẽ chiếm đoạt lên các chứng từ, tài liệu này, lập khống “Bảng kê chi tiết chuyển lương”, rồi giả chữ ký của giám đốc ký vào phần chủ tài khoản trên “Chứng từ giao dịch - Giấy rút tiền”; phần giám đốc công ty trên “Giấy nhận nợ” và phần xác nhận nhà phân phối trên “Bảng kê chi tiết chuyển lương". Sau khi lập hoàn chỉnh bộ chứng từ giả, Tùng đưa bộ chứng từ này cho nhân viên VCB Huế làm thủ tục rút tiền.
Tiếp nhận bộ chứng từ do Tùng đưa tới, khi thẩm định hồ sơ, các nhân viên của VCB Huế không phát hiện được các chứng từ, tài liệu này là do Tùng làm giả, nên đã làm thủ tục giải ngân tiền cho Công ty G. N. theo chứng từ. Với thủ đoạn này, từ tháng 12/2020 - 5/2022, Tùng đã lập và làm giả 11 bộ chứng từ để chiếm đoạt số tiền 4,350 tỷ đồng của công ty từ VCB Huế.
Ngoài ra, lợi dụng việc được giám đốc công ty ủy quyền đi thực hiện các giao dịch tiền mặt của Công ty G.N tại VCB Huế, Trương Ngọc Tùng nhiều lần thực hiện việc vay và rút tiền cho công ty từ VCB Huế, khi nhận được tiền, Tùng đã không nộp đủ số tiền đã nhận vào tài khoản và quỹ tiền mặt của công ty để chiếm đoạt số tiền hơn 550 triệu đồng.
Tổng số tiền mà Tùng chiếm đoạt của công ty G. N. là 4,910 tỷ đồng. Nhận được tiền, Tùng đã chiếm đoạt để tiêu xài, sử dụng hết vào mục đích cá nhân.
Sau khi bị Công ty G.N phát hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, ngày 10/6/2022, Trương Ngọc Tùng đã đến trình diện tại cơ quan công an và khai nhận hành vi phạm tội của mình. Tùng tự nguyện nộp khắc phục thiệt hại cho công ty này hơn 1,376 tỷ đồng.
Theo lời khai của bị hại tại phiên tòa, vì quá tin tưởng bị cáo nên bị cáo đã lợi dụng lòng tin để chiếm đoạt và một phần cũng do hệ thống ngân hàng không thông báo tin nhắn để quản lý khoản tín dụng này, mặc dù bị hại đã phản ánh với ngân hàng nhưng vẫn không được giải quyết nên đã để xảy ra vụ việc này.
Hội đồng xét xử tuyên phạt Trương Ngọc Tùng 16 năm tù về tội “Tham ô tài sản” và 3 năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Đồng thời, buộc Tùng phải bồi thường số tiền cả gốc lẫn lãi mà công ty đã tất toán nhầm cho ngân hàng.