Ông là nhiếp ảnh gia Võ Viết Đức, sinh năm Mậu Ngọ 1918 tại phường Thái Trạch, Thành Nội Huế. Thật may mắn, ông lão 106 tuổi (theo âm lịch thì đã 107 tuổi) vẫn còn trí nhớ khá tốt, mắt đọc không cần kính, và nói năng rành mạch về những gì đã chứng kiến trong hơn một thế kỷ qua. Ông đang sống với cháu chắt ở đường Xuân 68 trong Thành Nội Huế. Sinh ra đầu thế kỷ XX, vẫn còn sống đến thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, ông quả thật là người “sống qua hai thế kỷ”.

Chiều Ngọ Môn năm 1949. Ảnh tư liệu do ông Võ Viết Đức chụp 

Người đã sống qua hai thế kỷ

Ông Võ Viết Đức có gốc gác từ Thăng Bình (Quảng Nam). Cha ông ra Kinh đô làm lính kỵ mã của triều đình, dưới triều Thành Thái, lấy vợ Huế rồi sinh con cái ngay trong Kinh thành. Học xong sơ học yếu lược (Primaire Élémentaire) ở Trường tiểu học Paul Bert, nằm gần cửa Thượng Tứ (Trường tiểu học Phú Hòa bây giờ), cậu Đức phải nghỉ học đi làm thợ. Hết làm thợ nhà in, đánh máy chữ, thợ đóng sách, lại làm thợ sơn mài. Tháng 9/1945, ông đăng ký vào lực lượng Giải phóng quân Thuận Hóa và được đưa về làm thư ký văn phòng của ông Lê Tự Đồng, Ủy viên quốc phòng Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Thừa Thiên, đặc phái viên quân sự của Khu 4 tại Huế. Tại văn phòng này, ông Đức còn làm văn thư cho ông Hoàng Anh, lúc đó là Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Thừa Thiên.

Đáp lời kêu gọi của Nam Bộ kháng chiến, cuối tháng 9/1945, Võ Viết Đức có mặt trong đoàn Giải phóng quân Thuận Hóa tham gia Nam tiến và chiến đấu tại chiến trường Nha Trang. Đầu năm 1946, ông về lại Huế và được phân công làm cận vệ cho Chủ tịch Ủy ban hành chính kháng chiến Trung Bộ Trần Hữu Dực. “Tui làm gạc-đờ-co cho ông Dực, nên ông đi mô tui theo nấy, đi khắp cả mấy tỉnh Trung Bộ, ra tận Hà Nội đón cụ Hồ” (tiếng Pháp garde de corps: vệ sĩ). Sự kiện đó diễn ra vào tháng 10/1946, ông tháp tùng Chủ tịch Trần Hữu Dực đi suốt hai ngày đường từ Huế ra Hà Nội, để đón Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Pháp dự hội nghị Fontainebleau trở về. Sau đó, ông được lệnh đưa hai cán bộ cao cấp vô Vinh và Huế.

Hai cán bộ đó là ông Cù Huy Cận, lúc đó là Thứ trưởng Bộ Nội vụ của Chính phủ Liên hiệp kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và nhà thơ Xuân Diệu, lúc đó là đại biểu Quốc hội khóa 1. “Đó là chuyến đi nhớ đời của tui, vì được tháp tùng hai người nổi tiếng và cùng hai ông chứng kiến những hình ảnh đau thương sau trận đói Ất Dậu suốt dọc đường đi từ Hà Nội vô Vinh. Cũng từ chuyến đi đó đã thúc tui phải có cái máy ảnh trong tay”, ông Đức nói. Nhưng trước đó, vào mùa hè năm 1940, ông Đức đã tham gia chụp ảnh vua Bảo Đại, trong vai trò phụ việc cho nhiếp ảnh gia Tôn Thất Dung.

Ông Võ Viết Đức (thứ hai từ trái sang, hàng trên) cùng các nhiếp ảnh gia xứ Huế những ngày sau 1975. Ảnh tư liệu: Võ Viết Đức 

Chụp ảnh vua Bảo Đại ở lầu Kiến Trung

“Bữa đó, tui được ông Tôn Thất Dung gọi đi cùng ông vô Đại Nội để chụp ảnh vua Bảo Đại. Ông Tôn Thất Dung là người hoàng tộc, nên được vua gọi vô chụp ảnh. Tui vác cái chân máy ảnh dài đến thước rưỡi. Hai thầy trò đi vô cửa Hòa Bình, rồi vô tòa nhà Ngự tiền văn phòng. Tại đó, ông quan ngự tiền đưa chúng tôi vô lầu Kiến Trung để chụp ảnh vua và hoàng hậu cùng các công chúa” - ông Đức nói không nhớ rõ ngày, nhưng nhớ đó là một buổi sáng mùa hè năm 1940, khoảng tháng Tám. Vua Bảo Đại và hoàng gia sống ở tòa lầu Kiến Trung.

Ông Đức nói đó là tòa lâu đài rất đẹp, so với cung An Định (biệt cung của vua Khải Định) thì đẹp gấp mười lần. Tầng trệt là phòng khách, hai thầy trò được đưa lên tầng hai, nơi sinh hoạt của vua và gia đình. “Chúng tôi chụp bằng máy ảnh Yashica của Nhựt Bổn, phim Kodak 8 miếng rời. Ông Dung chụp chính, tui phụ việc. Vua Bảo Đại khá vui tính, nói tiếng Pháp xen lẫn tiếng Huế. Hoàng hậu Nam Phương thì ít nói, chỉ cười, ăn mặc rất đàng hoàng, và rất đẹp. Tui chỉ liếc nhìn thôi, không dám nhìn thẳng vua với hoàng hậu, cũng không dám nói năng chi. Lúc nớ mình là dân mà, ai dám hỗn”, ông Đức kể.

Sau khi chụp xong, chúng tôi trở về phòng tối để tráng phim, sang ảnh. Do chỉ có phim trắng đen, nên ông Dung phải chọn một số tấm đẹp rồi tô màu. Lúc đó ở Huế, ông Tôn Thất Dung là người rất giỏi tô ảnh màu. Mấy ngày sau thì mang ảnh vô giao cho Ngự tiền văn phòng. Rất mừng là không có tấm ảnh nào xấu nên không bị la mắng chi cả.

Ông Đức còn nhớ hôm đó chụp rất nhiều ảnh vua và hoàng hậu, có cả hoàng tử Bảo Long và công chúa Phương Mai, chủ yếu là ảnh vua và hoàng hậu trong trang phục ngày thường. Ông Tôn Thất Dung nói tiếng Pháp giỏi, nên vừa chụp vừa chuyện trò với vua. Vua cũng vui vẻ trò chuyện nhưng chỉ nói chuyện về chụp ảnh. Vua nói ở Pháp mà chụp nhiều ảnh thế này là tốn tiền lắm. Lúc đó, tình hình chính sự vẫn yên nên vua và hoàng hậu còn vui tươi.

Ông Võ Viết Đức - Người chụp ảnh vua Bảo Đại và chứng kiến vua thoái vị 

Chứng kiến nhà vua thoái vị

“Tui nhớ rõ buổi chiều nớ, 30 tháng Tám 1945. Người ta kéo nhau về rất đông trước cửa Ngọ Môn để chứng kiến vua Bảo Đại thoái vị, trao ấn kiếm cho chính quyền cách mạng. Tui cũng có mặt trong đám đông đó”, ông Đức nhớ lại. Nhà ở đường Nhà Thương Nhỏ (tên đường tiếng Pháp là Rue de L’hopital Thành Nội), cách Ngọ Môn chưa đầy cây số, nên ông Đức đã có mặt từ khá sớm. Lúc đó, ông Đức đã 27 tuổi, làm nhân viên nhà in rồi theo nghề đánh máy, đóng sách vở. “Vua cùng với đình thần và phái đoàn Chính phủ cách mạng đứng trên lầu Ngọ Môn (tức lầu Ngũ Phụng, nằm trên cửa Ngọ Môn - PV). Tui đứng gần cửa nhưng cũng không rõ mặt vua lắm. Sau đó thì mới biết là vua có nói một câu bất hủ: Thà làm dân một nước độc lập, còn hơn làm vua một nước nô lệ. Dân hoan hô lắm!”, ông Đức kể.

Ông Đức nói đời người mà được chứng kiến việc quan trọng như vậy là hân hạnh lắm. Được tham gia chụp ảnh vua khi vẫn còn trên ngai vàng quyền thế, rồi lại được chứng kiến vị vua đó trao ấn kiếm để thoái vị, ông Võ Viết Đức quả là người hiếm hoi có được hân hạnh đó. Đến lúc này, cụ già 106 tuổi ấy là nhân chứng sống của sự kiện lịch sử 79 năm trước. Cầu mong cho ông được sống khỏe để chứng kiến lễ kỷ niệm 80 năm ra đời nước Việt Nam độc lập vào tháng 9 năm sau 2025. 

Trước khi thành nhiếp ảnh gia, ông Võ Viết Đức là một thợ nhà in lành nghề. Ông làm thợ sắp chữ và sửa bản in cho các nhà in lớn ở Huế trước 1954 như: Đắc Lập, Viễn Đệ, Nguyễn Văn Bửu… Ông cũng từng làm thợ sửa bản in (corrector) cho báo Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng.

Năm 1947, ông mua chiếc máy ảnh hiệu Lumiere của Pháp để kiếm sống bằng nghề chụp ảnh và theo đuổi đam mê nghệ thuật nhiếp ảnh mà ông từng mơ ước. Một mình ông vừa chụp, vừa tự làm kỹ thuật phòng tối để tráng phim, sang ảnh. Đến năm 1955, ông chuyển sang nghề thư ký đánh máy ở tỉnh đường Thừa Thiên thì chiếc máy ảnh trở thành công cụ nghệ thuật để thỏa ước mơ săn tìm cái đẹp.

Thập niên 1960 - 1970, Võ Viết Đức là nhiếp ảnh gia của làng nhiếp ảnh xứ Huế, cùng với những tên tuổi nổi tiếng: Nguyễn Khoa Lợi, Tôn Thất Dung, Lê Quang, Trần Nguyên Cáo, Nguyễn Hữu Đính, La Cảnh Lưu, Ích Sanh, Lê Viêm... Năm 1978, ông là một trong những thành viên sáng lập Phân hội nhiếp ảnh Bình Trị Thiên.

Minh Tự