Trước đó, ngày 10/8/2014 Báo Thừa Thiên Huế đã đăng bài “Đình làng Bình Lục kêu cứu”, phản ánh: Đình làng Bình Lục toạ lạc trên diện tích 1.935m2 đất tại phường Vỹ Dạ, TP Huế, được dân làng đóng góp xây dựng hơn 200 năm, qua nhiều giai đoạn chiến tranh, thiên tai, vẫn được tu bổ, giữ gìn, làm nơi thờ phụng, tế tự hàng năm, hiện nay vẫn còn nguyên vẹn từ đình cho đến cửa tam quan. Sau giải phóng 1975, ông Nguyễn Văn Hữu về làng, làm một căn nhà trên đất thuộc đình làng để ở. Sau đó, vào năm 2008 ông Hữu được chính quyền cấp giấy chứng nhận 1.419m2 đất trong tổng diện tích 1.935m2 đất của đình làng và xây dựng thêm nhiều ngôi nhà khác trên đất xung quanh đình làng cho các con ông ở, cản trở việc thờ phụng, tế tự của dân làng. Nhiều năm liền dân làng gửi đơn đến các cấp chính quyền yêu cầu giải quyết, thu hồi giấy CNQSDĐ đã cấp không đúng pháp luật cho gia đình ông Hữu, đồng thời có biện pháp giải toả các ngôi nhà mà gia đình ông Hữu xây dựng trên đất đình làng.

Theo Công văn số 324 ngày 22/11/2006 của Phòng Tài nguyên & Môi trường, gửi UBND TP Huế về việc trả lời đơn của ông Nguyễn Văn Hữu thì năm 1938, ông Nguyễn Văn Đàm (cha của ông Hữu) có đơn xin nhận lại đất của dòng họ tại làng Bình Lục, được lý trưởng chứng thực, đề nghị trên cho nhận lại là 1.500m2, còn để lại 500m2 dùng làm đình làng. Sau đó, ông Đàm đã chuyển nhượng mảnh đất nói trên cho con là Nguyễn Văn Hữu. Ông Hữu đã được Ty Điền địa Thừa Thiên cấp trích lục địa bộ số hiệu A.29 ngày 23/6/1974, với diện tích 1.505m2, loại đất ở. Nhưng theo bản đồ địa chính đo năm 1997, thì thửa đất mang số hiệu 28 tờ bản đồ 45 được đánh ký hiệu đình làng. Tại bản đồ 299, thửa đất mang số hiệu 1026, tờ bản đồ 02 cũng thể hiện đình làng. Còn sổ mục kê năm 1998, thì đất ông Hữu sử dụng nằm trong thửa số 28 tờ bản đồ 45, diện tích 1.935m2, do UBND phường Vỹ Dạ quản lý (phần ghi chú là chùa làng).
Bài báo “Đình làng Bình lục kêu cứu” nêu rõ: Theo giấy tờ của Ty Điền địa Thừa Thiên (cũ), tuy có cấp trích lục địa bộ số hiệu A29, ngày 23/6/1974 cho ông Nguyễn Văn Hữu, với diện tích 1.505m2, nhưng sau giải phóng, từ 1975 đến 1998, ông Hữu không đăng ký kê khai sử dụng đất. Theo bản đồ đo vẽ các năm nêu trên, thì thửa đất này do UBND phường Vỹ Dạ quản lý, đứng tên kê khai, được thể hiện trong bản đồ thuộc thửa số 28, tờ bản đồ 45, diện tích là 1.935m2 đất, đúng như diện tích đất của đình làng, như phản ánh. Mặt khác, đình làng đã tồn tại hàng trăm năm nay là đúng thực tế.
Quá trình giải quyết khiếu nại, căn cứ quy định của pháp luật đất đai hiện hành, xét Báo cáo số 245 ngày 25/12/2013 của Thanh tra TP Huế về kết quả thẩm tra, xác minh việc cấp giấy CNQSDĐ cho ông bà Nguyễn Văn Hữu- Nguyễn Thị Kim Cúc tại thửa đất số 69, tờ bản đồ số 45, diện tích 1.419m2 tọa lạc tại 15/131 Hàn Mặc Tử, phường Vỹ Dạ, TP Huế, xét đề nghị của Phòng Tài nguyên & Môi trường tại tờ trình số 138 ngày 10/3/2013, UBND TP Huế ban hành Quyết định số 1296 ngày 18/3/2014 về việc thu hồi, hủy bỏ giấy CNQSDĐ đã cấp cho vợ chồng ông Hữu. Lý do: cấp không đúng với quy định của pháp luật. Tại khoản 2 Điều 2 của Quyết định nêu rõ: “Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất TP, UBND phường Vỹ Dạ chịu trách nhiệm chỉnh lý, cập nhật hồ sơ địa chính và hướng dẫn người sử dụng đất lập thủ tục cấp giấy CNQSDĐ… theo quy định của pháp luật”.
Như vậy, diện tích đất 1.419 m2 tại thửa số 69, tờ bản đồ số 45, được Phòng Tài nguyên và Môi trường, UBND phường Vỹ Dạ thi hành quyết định chỉnh lý, cập nhật hồ sơ địa chính theo qui định của pháp luật. Vấn đề còn lại, gia đình ông Hữu, bà Cúc vẫn còn nhà ở trên đất đình làng như trước đây, do đó giữa bà con các dòng họ làng Bình Lục và gia đình ông Hữu, bà Cúc vẫn còn tranh chấp. Theo qui định của Luật Đất đai năm 2013 và Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đất đai 2013, tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đó, thì các bên có quyền gửi đơn khiếu kiện đến UBND hoặc TAND cấp có thẩm quyền yêu cầu giải quyết.
Quỳnh Anh