- ThS. LS Nguyễn Văn Phước, Trưởng Văn phòng Luật sư Huế: Uỷ quyền giao dịch (UQGD) bất động sản (BĐS) là một hoạt động giao dịch dân sự được pháp luật cho phép. Căn cứ điều 581 Bộ luật Dân sự quy định về hợp đồng ủy quyền như sau: “Hợp đồng ủy quyền là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền, còn bên ủy quyền chỉ phải trả thù lao, nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”. Do đó, người nhận ủy quyền chỉ “nhân danh” bên ủy quyền thực hiện các quyền đối với tài sản trong phạm vi được ủy quyền (được quy định cụ thể trong hợp đồng ủy quyền) và người ủy quyền vẫn phải chịu trách nhiệm về tài sản với tư cách là chủ sở hữu tài sản. Việc này không làm dịch chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng mà chỉ là sự thay đổi chủ thể thực hiện các quyền của chủ sở hữu.

Mặt khác, tại khoản 1, điều 2 Luật thuế TNCN quy định: “Đối tượng nộp thuế TNCN là cá nhân cư trú có thu nhập chịu thuế quy định tại điều 3 của luật này phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam và cá nhân không cư trú có thu nhập chịu thuế quy định tại điều 3 của luật này phát sinh trong lãnh thổ Việt Nam”. UQGD BĐS không làm phát sinh thu nhập chịu thuế mà chỉ là sự thay mặt chủ sở hữu thực hiện các quyền về tài sản. Do đó, căn cứ Bộ luật Dân sự và Luật thuế TNCN thì không có cơ sở để thu thuế TNCN đối với trường hợp UQGD BĐS.
 
Tuy nhiên, trên thực tế, một số cá nhân lợi dụng quy định này để “lách luật” và trốn thuế. Vì vậy, tại Công văn 1133/TCT-TNCN ngày 5/4/2011 về vướng mắc thuế TNCN đối với chuyển nhượng BĐS, Tổng cục Thuế chỉ đạo: Việc cá nhân có đầy đủ năng lực dân sự mà ủy quyền cho cá nhân khác không thuộc đối tượng được miễn thuế theo quy định tại các khoản 1 và 4, điều 4 Luật thuế TNCN, được toàn quyền thực hiện việc chiếm hữu, quản lý, sử dụng và định đoạt BĐS của mình, bao gồm cả việc cho thuê, cho mượn, chuyển nhượng, đổi, cho tặng, thế chấp và không phải hoàn trả lại BĐS cho bên ủy quyền và các lợi ích có được từ hoạt động ủy quyền; đồng thời, bên được ủy quyền không nhận thù lao thì thực chất đây là hoạt động mua, bán BĐS. Do đó, người ủy quyền phải có nghĩa vụ kê khai và nộp thuế TNCN theo quy định của Luật thuế TNCN.
 
Trường hợp bạn ủy quyền cho chú mình thay mặt thực hiện việc chuyển nhượng nhà đất mà bạn cam kết trong hợp đồng đặt cọc với người nhận chuyển nhượng trước đó thì vấn đề này không nhằm che giấu hoạt động mua bán BĐS để trốn thuế như các trường hợp nêu tại Công văn 1133/TCT-TNCN nói trên. Vì vậy, cơ quan chức năng không có căn cứ để thu thuế TNCN đối với chú bạn.
 
      Bùi Vĩnh (ghi)