Nhớ ăn cả vỏ
Hồng giòn thường ăn lúc chưa chín mềm, màu vàng, trái hơi vuông. Loại hồng mềm hay hồng đỏ chỉ nên ăn khi quả chín mềm. Quả hồng lúc chưa chín bên ngoài có một lớp sáp, khi ăn thường có vị se chát vì chứa rất nhiều tanin. Khi quả chín sẽ trở nên ngọt hơn vì tanin đã biến mất. Cách ăn tốt nhất là ăn tươi. Thịt quả hồng có giá trị dinh dưỡng rất cao, vì chứa nhiều beta caroten và sinh tố A (10.080 I.U cho 1kg hồng), sinh tố B (thiamin, riboflavin, niacin) và C. Ngoài ra, còn nhiều khoáng tố vi lượng như canxi, phốtpho, sắt, protein, nhiều chất xơ, đường. Hồng còn được sử dụng như phương thuốc cổ truyền chữa nhiễm trùng phổi, trĩ và chữa bệnh suyễn.
Với dạng hồng khô, ăn mỗi ngày khoảng một trái là tốt. Tính chất se chát của hồng còn giúp ngừng tiêu chảy, cầm máu. Hồng còn giúp ngừa ung thư nhờ hàm lượng beta caroten cao, và các hợp chất như sibutol và axít betulinic có tác dụng kháng ung thư. Một nghiên cứu mới tại Nhật Bản còn chứng minh tác dụng chống lão hoá của hồng nhờ nhóm hợp chất proanthocyanidin có nhiều trong vỏ.
Không ăn lúc quá đói
Hồng tươi có tính hơi hàn, có thể làm hạ huyết áp, không nên dùng cho người suy kiệt, huyết áp thấp, mệt mỏi kinh niên, phụ nữ sau khi sinh. Hồng khô tính bình, dẻo, ngọt, được dùng chữa ngộ độc do ăn uống gây tiêu chảy, kiết lỵ lâu ngày không hết.
Tuy vậy, không nên ăn nhiều hồng tươi vào lúc quá đói, cũng không ăn cùng những loại quả chứa nhiều axít hoặc protein, vì tanin trong hồng sẽ kết tủa với các nhóm chất trên làm tắc nghẽn đường tiêu hoá, gây khó tiêu và kích ứng niêm mạc ruột. Cũng nên lưu ý: hồng khô nhiều đường, ăn nhiều quá sẽ hại tỳ, không tốt cho răng miệng và dễ sinh nhiệt trong cơ thể; người tiểu đường cần hạn chế sử dụng.
DS Lê Kim Phụng (Theo SGTT)