- ThS. LS Nguyễn Văn Phước, Trưởng Văn phòng Luật sư Huế: Căn cứ khoản 2, điều 4 Luật thuế TNCN; khoản 2, điều 4 Nghị định 100/2008/NĐ-CP; điểm 2, mục III, phần A Thông tư 84/2008/TT-BTC thì thu nhập từ chuyển nhượng nhà ở, QSDĐ ở và tài sản gắn liền với đất ở của cá nhân trong trường hợp người chuyển nhượng chỉ có duy nhất một nhà ở, QSDĐ ở tại Việt Nam không phải chịu thuế TNCN. Điều 2 Thông tư 02/2010/TT-BTC ngày 11/1/2010 cũng quy định: “Việc miễn thuế TNCN theo quy định trên chỉ áp dụng đối với cá nhân chuyển nhượng nhà ở, đất ở duy nhất mà nhà ở, đất ở này đã được cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền cấp GCN quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng.”

Khoản 1, điều 168 Bộ luật Dân sự 2005 quy định việc chuyển quyền sở hữu đối với tài sản là bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sở hữu. Theo đó, người sử dụng đất phải đăng ký QSDĐ và được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công nhận QSDĐ (thể hiện bằng việc người sử dụng đất được cấp GCN QSDĐ) thì khi đó người sử dụng đất mới xác lập xong quyền sở hữu của mình đối với bất động sản. Thửa đất thứ hai được bạn mua năm 1999 bằng giấy tay và hiện bạn chưa hợp thức hóa quyền sử dụng của mình (chưa được cấp GCN QSDĐ) nên quyền sở hữu của bạn với mảnh đất này chưa xác lập xong. Do đó, căn cứ theo pháp luật, bạn chỉ có quyền sử dụng, sở hữu duy nhất nhà và đất mà hiện bạn đang ở và đã được cấp GCN QSDĐ.

Vì bạn chỉ đứng tên sở hữu, sử dụng duy nhất một ngôi nhà và đất nói trên nên khi bạn chuyển nhượng nhà và đất này, bạn không phải chịu thuế TNCN đối với trường hợp người chuyển nhượng chỉ có duy nhất một nhà ở, QSDĐ ở tại Việt Nam

Bùi Vĩnh (ghi)