Ý định này đã từng dội lên rất nhiều lần, tất nhiên không phải vì món rươi Tứ Kỳ đặc sắc của Hải Dương mà chỉ nhắc đến thôi cũng làm tôi khép nép mà vì cái hao hức được nhìn ngắm mùa vải Thanh Hà chín, nghe sương rơi trong một sớm mai yên tĩnh ở Côn Sơn và ao ước được đặt chân lên nơi chốn nào đó của Lục Đầu Giang, chỉ để nhắm mắt hình dung về quang cảnh của một chiến cuộc trên điểm giao thông huyết mạch thời nhà Trần...

Ga Cẩm Giàng - Ảnh: Quang Thông

Nhưng bây giờ, mùa vải hình như cũng đã bắt đầu ngót. Là tôi nghĩ thế khi không thấy chúng xuất hiện ở các quầy hàng trái cây trên hè phố. Nhãn lại chưa vào mùa, dù quả xanh trĩu trịt trên cành thấp nơi những con đường mà tôi qua. Thành phố mà tôi chưa đi hết cũng la đà màu xanh. Những khu nhà to và rộng ở phía ngoại vi mang đến dấu ấn của một nền công nghiệp đang trẻ ra và hiện đại hơn. Có lẽ đây cũng là mục tiêu mà Hải Dương đang phấn đấu để đạt được trong vài năm tới. Đặt trong mối tương quan, tôi biết ở chiều kích này và với lợi thế nằm ở trung tâm của vùng đồng bằng sông Hồng cũng như nằm trong chuỗi các thành phố vệ tinh của Hà Nội, Hải Dương đang khác dần từng ngày với những chỉ số ấn tượng với tốc độ tăng trưởng (GRDP) giai đoạn 2011-2015 cao hơn mức bình quân của cả nước (bình quân tăng 7,7%/năm). Huy động vốn đầu tư nước ngoài đạt trên 72% trong năm 2015; giá trị tổng sản phẩm đạt 76.734 tỷ đồng và GRDP bình quân đầu người đạt 2.000 USD – mức mà nhiều địa phương trong cả nước đang nỗ lực để đạt được.

Dẫu sao thì những con số cũng không thể nào giúp hình dung hết được dáng vẻ của một vùng đất với tôi hãy còn quá mới mẻ. Nhưng đường nét ở các khu công nghiệp và nhịp điệu có phần hối hả của nó cũng đủ để có thể mường tượng và chia sẻ được những áp lực của công việc hàng ngày và phần nào đó, hiểu được tính cách của bạn bè, đồng nghiệp. Thật ra thì khi bồng bềnh trên mặt nước vùng hồ An Dương phía Thanh Miện, tôi đã muốn gọi nơi đây là vùng đất an bình. Nếu không, làm sao đàn cò trắng, cò ngang, cò xám, cò nghênh, cò diệc, cò bợ, cò hương và những con vạc xám, vạc xanh, vạc đen với số lượng khoảng trên 25.000 con mà người ta có thể tính được lại chọn chốn này làm nơi trú ngụ? Lúc ấy, chỉ còn lác đác những cánh cò chập choạng về tổ nhưng chừng ấy cũng đủ làm xôn xao cả trời chiều.

Nhà lưu niệm Tự Lực Văn Đoàn ở Cẩm Giàng (Hải Dương)

Dù được phát hiện chưa lâu và mới chỉ tiệm cận cách làm du lịch ở vùng đất sinh thái, nhưng cứ nhìn đàn cò vạc neo mình trên cây hay thong thả trên khoảnh đất trống nhoi lên giữa mặt hồ, bình thản ngắm người, tôi biết người dân nơi này đã thật sự yêu quý và gìn giữ những gì mình có. Thì cứ nhìn ánh mắt và nụ cười mủm mỉm của người chèo đò khi ai đó mau mắn dẫn chuyện về “huyền tích” của đảo Cò rồi sau đó, từ tốn nói với khách từ phương xa đến về diện tích và trữ lượng nước, số lượng đàn cò vạc, những khoảnh khắc nao động của đảo trong mỗi sớm bình minh hay trong những chiều tà, về những buổi bơi thuyền không qua vùng đảo như một cách trò chuyện với cò vạc để lấp đầy khoảng trống chơi vơi mùa vắng khách; cả về cái sốt ruột của người dân về một dự án nào đó chưa thấy triển khai mà dấu hiệu sụt lở quanh đảo đã thấy rõ hơn từng ngày, tôi biết thời gian đã đủ để tạo nên sự gắn bó. Tôi cũng thích cách các cô bé cậu bé phấn khích reo lên và nhoài người bấm máy khi những cánh cò cuối cùng về tổ. Lúc ấy, sao tôi cứ nghĩ về đàn cò trắng khác sẽ chở sự trong trẻo này vào ký ức bằng những hình ảnh nhuốm màu cổ tích của ngày hôm nay.

Có thể cảm giác được mùi đồng quê lành sạch trong sớm mai khi ngược về phía Kinh Môn. Ngày không nắng. Có lẽ vì thế mà cuộc viếng thăm đền Cao An Phụ - nơi thờ An Sinh Vương Trần Liễu với 389 bậc cấp đã trở nên dễ dàng hơn. Ở đây, có giếng Ngọc và cây sung đã hàng trăm năm tuổi nhưng trái vẫn sum suê. Khi đứng trên điểm cao nhất của đền thờ, nhìn sương mỏng giăng tỏa làng mạc, tôi đã nghĩ về những thăng trầm và biến thiên của lịch sử, về vai trò, vị thế và tầm nhìn của người xưa trong việc lựa chọn và kiến tạo để nơi đây trở thành một vùng đất trù phú, mùa màng tốt tươi và cư dân thái bình. Không chỉ người dân Kinh Môn, Đông Triều, Yên Hưng thờ và tôn ông làm Thành hoàng mà ngày 1 tháng 4 âm lịch hàng năm đã trở thành ngày hội đền An Phụ của người dân đến từ tứ xứ. Trong sảnh chùa Cao, tôi đã lặng lẽ ngồi xuống bên cạnh người đàn ông đang cất lên làn điệu mang hơi hưởng chèo và cảm nhận ánh mắt độ lượng, nhân từ nhiều lắm những pho tượng Phật trong không gian bé nhỏ. Một cái gì tan ra, loãng đi trong thanh thản chốn thiền.

Cò, vạc trên đảo Cò An Dương (Thanh Miện)

Vượt qua bão gió, bom đạn và chiến tranh, ở Văn Miếu Mao Điền – một kiến trúc vốn rất uy nghi, bề thế đang được khôi phục và trùng tu - có một cây hoa gạo cổ bây giờ vẫn đứng ân cần cùng năm tháng. Tháng 7, mùa hoa đã qua. Chỉ còn bóng nắng trên những cành cây già cỗi. Không ai kể cho tôi nghe về cánh đồng Tràn – nơi những sĩ tử của kỳ thi Hương đến từ trấn Hải Dương, và sau đó là những sĩ tử đến từ nhiều nơi khác ở miền Bắc trong kỳ thi hội – dựng lều chõng trong cuộc đua tranh tài. Người xứ Đông hẳn có niềm kiêu hãnh về vùng đất học của mình khi có đến 12 trạng nguyên và trên 500 trong tổng số gần 3.000 tiến sĩ Nho học của cả nước qua các kỳ thi. Cùng với Đại danh y, thiền sư Tuệ Tĩnh – người được đồng nghiệp nhắc hoài trên xe, khi vào thắp hương ở hậu cung, tôi đã đọc được những cái tên khác mà danh tiếng và sự đóng góp vào nền văn hóa dân tộc của các bậc tiền bối đã được sử sách ghi công như anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi, nhà giáo Chu Văn An, Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nhập nội hành khiển Phạm Sư Mạnh, Thần toán Vũ Hữu, Nghi Ái quan - Tiến sĩ Nguyễn Thị Duệ, nữ tiến sĩ duy nhất của nước ta thời phong kiến...

Với thị trấn Cẩm Giàng, cuối cùng tôi đã chạm đến điều mình thấp thỏm. Phố lỵ ở đây trông vẫn nhỏ nhắn và nhu mì. Đường Thạch Lam trông có vẻ bề thế nhưng ngắn, đâu chừng 250m. Cuối con đường ấy là ga Cẩm Giàng. Men theo con đường bé hẹp và lổn nhổn đá đường tàu là nhà của Thạch Lam, giờ đã trở thành nhà lưu niệm Tự Lực Văn Đoàn. Ở đây, có lẽ chỉ còn rêu xanh là như đến từ ký ức cũ và khoảnh ao nâu vàng màu nước gần như hãy còn nguyên như ở tháng ngày đã qua. Trong không gian lâu lắm mới được xáo động bởi tiếng người, tôi thú thật đã không thể nào hình dung được bước chân của những văn nhân cũ với những khăn xếp, áo the hay chỉn chu quần tây, sơ mi và giày với những hàn huyên cơm rượu, hay chỉ đơn giản như khi nào đó chè xanh, nước vối với những băn khoăn thế sự, với những ấp ủ và sinh nở những tác phẩm bàng bạc phong vị nhân tình trong những Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Trống mái, Gia đình, Băn khoăn (Khái Hưng); Hai buổi chiều vàng, Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Đôi bạn (Nhất Linh); Con đường sáng, Tiếng đàn, Mười điều tâm niệm (Hoàng Đạo) hay Gió đầu mùa, Nắng trong vườn. Nhà mẹ Lê, Bên kia sông (Thạch Lam)... Không còn hoàng lan để tìm bóng người xưa, trong khuôn viên nhà lưu niệm, chỉ có những đóa lan mảnh tròn mà ai vừa gọi là lan nhảy dù cọ vào vai lữ khách như một tấm ân tình. Người ta bảo, tàu cũng chẳng mấy khi dừng ở ga Cẩm Giàng nữa. Hôm ấy, tôi đã đứng mãi để nhìn đường tàu hun hút. Sau này, trong một tìm kiếm, tôi đã thấy màu sương thấp thoải mờ xa mà quá chừng ám ảnh trong tấm ảnh chụp ga Cẩm Giàng của Quang Thông trên báo Hải Dương điện tử...

Khi rời Hải Dương, rời Xứ Đông, tôi đã mang theo hình ảnh dễ thương của một cụ ông chở tiếng hát trong giỏ xe đạp khi một mình ngược vòng hồ Bạch Đằng sáng ẩm gió. Biết hẳn còn nhiều duyên nợ cho lần nào đó trở lại...

Bài, ảnh: NGUYỄN SÔNG HƯƠNG