Đã có không ít người nghĩ rằng ý thơ trong một số bài thơ chữ Hán ngày trước đã nhắc đến Mai vàng (Ochna integerrima). Thật ra, chưa nói đến thơ cổ trung Quốc, mà ngay cả Mãn Giác Thiền sư, đến Nguyễn Du, rồi Cao Bá Quát đều nói đến một loài Mai mà người Trung Quốc gọi là "Méi", tức là cây Mơ, nhiều người Việt chúng ta gọi là Bạch mai thuộc họ Hoa hồng. Trong các bản gốc chữ Hán các câu thơ, câu kệ, câu đối của các tác giả vừa nêu đều dùng chữ 梅 hoặc 槑.

Trên Nghị đỉnh (đỉnh thứ V của cửu đỉnh đặt ở Đại Nội Huế) có khắc một cây mai trổ hoa, bên cạnh có chữ Mai. Có người cho đó là Mai vàng xứ Huế. Thật ra đó là Bạch mai, vì hơn ai hết, chính Vua Minh Mạng phân biệt rạch ròi loài Mai này với Mai vàng. Và khi nhắc tới Mai vàng, Vua Minh Mạng đã gọi là Hoàng mai hay Lạp mai. Hơn thế nữa, người Trung Quốc không gọi Mai vàng là Mai mà là Kim liên mộc (jin lian mu). Người Trung Quốc cũng dùng tên Lạp mai, nhưng không để chỉ loài Mai vàng như Minh Mạng viết trong Thánh chế mà gọi tên cho một loài hoa cũng có sắc vàng, mang tên khoa học là Chimonanthus praecox.

Trong khuôn khổ bài này, chúng tôi không tranh luận nhiều về điều đó, mà chỉ muốn nêu tản mạn đôi chút về những loài mai ở Việt Nam không họ hàng với Mai vàng truyền thống quen thuộc.

1. Bạch mai: tên tiếng Anh là Apricot, tên khoa học là Prunus armeniaca, thuộc họ Hoa hồng – Rosaceae.

Đây chính là cây Mơ, thường được trồng nhiều ở miền Bắc nước ta. Cây thân gỗ cao 3 – 5 m, Lá thường tập trung trên nhánh ngắn, phiến hình xoan rộng hay hình trứng, đáy hình tim, đỉnh có mũi ngắn, bìa có răng kép nhỏ, gân phụ 5-7 cặp; cuống dài. Ra hoa trước khi lá xuất hiện, hoa trắng hay phớt hồng, cuống hoa rất ngắn, tràng 5 cánh, nhị 15-20. Ở miền Bắc cây ra hoa vào cuối Đông, kéo dài sang Xuân. Ở Trung Quốc, cây cũng ra hoa từ Đông sang Xuân, thường trải qua một thời ký băng giá, đôi khi chịu phủ tuyết đầy cành, che lấp cả hoa, nhưng hoa vẫn tươi thắm, vì vậy mới có câu "Mai cốt cách, tuyết tinh thần" hoặc "Đạp tuyết tầm Mai"… Quả có nhân cứng, có phủ đầy  lông mịn. Quả được dùng làm ô mai (mơ đen) và chữa bệnh.


Bạch mai

2. Mai chiếu thủy: còn được gọi là mai chấm thủy, tên tiếng Anh Wrightia, tên khoa học là Wrightia religiosa,  thuộc họ Trúc đào – Apocynaceae. Cây thân gỗ, thân xù xì, nhiều cành nhánh nhỏ dễ uốn nắn và cắt tỉa, nên đã được trồng làm cảnh, làm cây uốn thế lâu đời ở nước ta.  Lá mỏng, hình xoan thuôn, cuống rất ngắn, màu xanh bóng. Cụm hoa dạng xim thưa, hoa nhỏ có cuống dài buông thõng xuống, cánh hoa màu trắng, rất thơm. Cây vừa có dáng đẹp, vừa có hoa đẹp và thơm, chịu ẩm ngập được nên thường được trồng ở hòn non bộ hay ở chậu cảnh.


Mai chiếu thủy

3. Mai chỉ thiên: tên tiếng Anh là Winter cherry tree, tên khoa học là Wrightia antidysenterica, thuộc họ Trúc đào – Apocynaceae, là một loài tương cận với Mai chiếu thủy, nên có hình thái lá và hoa tương tự. Điểm khác biết rõ nét để phân biệt là hoa của loài này không buông thõng mà mọc thẳng hướng lên trời. Cũng vì thế đã được gọi tên là Mai chỉ thiên. Cây cũng thường được trồng làm cảnh trong chậu hay trên hòn non bộ.


Mai chỉ thiên

4. Mai mù u: còn được gọi là Nam mai, tên khoa học là Ochrocarpus siamensis var. odoratissimus, thuộc họ Bứa (Măng cụt) – Clusiaceae. Cây thân gỗ, cao 20 – 25 m, vỏ đỏ. Lá non màu đỏ, mọc đối, thuôn rộng dần ở đỉnh, đầu tròn có khía lõm, gân lá rõ, mịn. Cụm hoa ở nách lá, hoa màu trắng dày đặc, thơm giống như hoa mù u, dạng cây, cành và lá cũng hao hao giống mù u, vì vậy đã có tên Mai mù u. Đây là một loài thực vật nhiệt đới, chịu khô hạn tốt, vì vậy ở Thừa Thiên Huế, chúng tôi gặp nó phân bố rải rác dọc theo dải cát ven biển, thường mọc xen lẫn với nhiều loài cây gỗ khác trong những rẻo rừng thoái hóa, diện tích nhỏ, người miền Trung gọi là rú cát. Cây ra hoa vào dịp cuối xuân.


Mai mù u

5. Mai Nhật: tức là cây Kim đồng, tên tiếng Anh là Gold shower thryallis, tên khoa học là  Malpighia glauca,  thuộc họ Dùi đục – Malpighiaceae. Cây thân gỗ, mọc thành bụi dày, phân cành nhiều, cao khoảng 1,5 m. Cành thon mảnh, mềm yếu nên ở những nơi có gió lớn thường xuyên, cành cần có các giá thể để tựa vào mới ít gãy. Lá hình xoan đều, nhẵn, mọc đối, xanh hơi ngã vàng, dài 4-6 cm. Cụm hoa dạng tán thưa ở đỉnh cành. Hoa vàng tươi, cánh tràng 5, có móng ngắn, nhị 10, chỉ nhị mảnh, màu vàng sau chuyển dần qua đỏ. Hoa gần như nở quanh năm.


Mai nhật

6. Hồng mai: người Huế gọi là Nhất chi mai, tên tiếng Anh là Fiddlehead jatropha, tên khoa học là Jatropha pandurifolia, tên đồng danh là Jatropha integerrima, thuộc họ Thầu dầu – Euphorbiaceae. Cây thân gỗ, mọc thành bụi tỏa rộng, cao 1 – 3 m, cành nhánh mọc chếch ngang và mềm dẽo nên thương phân tán thưa. Lá bầu dục, phần trên nguyên, gốc có khía răng. Cuống lá dài, mảnh. Cụm hoa trên cuống chung dài, mang nhiều hoa xếp thưa. Hoa có cánh đài màu đỏ nâu, 5 cánh tràng đỏ hoặc hồng thắm, xòe rộng. Hoa không nở đồng loạt, nở dần kế tiếp nhau nên cây có hoa quanh năm. Ở Hội An, các nhà kinh doanh hoa và cây cảnh đang sản xuất hàng loạt thứ Hồng mai lá xẻ - Jatropha integerrima  var. compacta.


Hồng mai

Như vậy mới thấy rằng, người Việt chúng ta hễ thấy một loài hoa nào có cây thân gỗ, hoa đẹp, trồng làm cảnh được, dạng hoa tương tự hoa mai thì đều gọi cho nó tên mai cả. Ngay cả cây Bún – Crateva religiosa, cũng được người dân xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam gọi là Mai hạ. Bởi vậy theo tôi, mỗi khi vận dụng ý thơ của nhiều bài thơ cổ nói về Mai chúng ta cần luận dẫn các căn cứ khoa học để tránh sự nhầm lẫn không đáng có, hầu có thể tạo sự tranh luận khoa học tích cực chứ không phải những tranh cải không đáng có.

Đỗ Xuân Cẩm