Mệ đẹp. Nét đẹp của một người đàn bà cô độc.

Giêng hai, Huế mưa nắng thất thường, tôi tự hỏi không biết thời tiết thế này người đàn bà già nua ở chân cầu Bến Ngự ấy ăn ở ra sao. Đi bộ tìm đến mệ. Chiều đìu hiu, hiện ra trước mắt tôi như vài lần trước vẫn là một khuôn dung nhỏ nhắn, đôi bàn tay nhăn nheo gân xanh chằng chịt.

Tay phải cầm bật lửa, tay trái cầm điếu thuốc lá cuộn. Mệ rít một hơi, nhả khói vào không trung, đôi mắt đùng đục với cái nhìn đi vắng. Người đàn bà ấy hút thuốc từ khi mới 12 tuổi, đến nay đã hơn 70 năm. Hồi nhỏ, do châm thuốc cho ba nhiều lần nên bén hơi và nghiện từ lúc nào không hay.

Tôi cảm nhận một nỗi cô độc có thật trong trái tim của mệ....

Thân phận ấy đã đi một chặng dài từ vùng trời ấm sáng đến khoảng lặng hôm nay. Ba mệ là thầy thuốc, thông thuộc Hán - Nôm. Mạ của mệ là con gái dòng dõi Hoàng phái. Từ nhỏ, mệ được học trong trường của Hội Phật học, biết cả Hán văn và Pháp văn, khéo léo nữ công gia chánh. Mệ được sống những ngày ấu thơ non nớt trong một gia đạo nề nếp, với mùi thơm của thuốc nam và tiếng cầu kinh niệm Phật của mệ nội đêm đêm. Nhưng rồi ba mạ mất sớm, anh em chia lìa, mệ chính thức bơ vơ, không hơi ấm gia đình.

Kể về những ngày đã qua, mệ nói mệ kết hôn muộn, khi đã 40 tuổi, với một quân nhân người Quảng Trị. Hai người sống với nhau được một thời gian thì chồng qua đời. Họ không có con. Những người ruột thịt đã thành xa cách, hai tiếng ba mạ - anh em tưởng như chỉ có thể gọi trong những cơn ốm o mê ngủ. Mệ lại một mình một bóng trong căn nhà gỗ do cha mạ để lại.

Mùa xuân, chiều xuống thật đậm. Bầu trời âm u, võng xuống. Những cơn gió thổi vào từ dòng An Cựu mang theo mùi hương ngai ngái của nước mưa bị úng nhiều ngày. Dựa lưng vào cánh cửa gỗ vẫn hằn nguyên vết đạn bắn từ thời đất nước còn chiến tranh, mệ đưa mắt nhìn về phía cột đèn đường ray xe lửa. Trời sắp tối rồi. Một ngày nữa lại sắp qua đi.

Tôi bước vào nơi ở của mệ. Một không gian lạnh lẽo, thể như không có người ở từ rất lâu. Kệ bán thuốc của ba vẫn còn nguyên ở góc nhà, với những ô chữ ngăn cách giữa các vị thuốc, mệ bảo rất thương quý nghề nghiệp của ba. Đồ dùng không có chi nhiều, vài ba cái bát đôi đũa, xoong nồi nằm lạnh tanh nơi gác bếp. Bóng mệ bé nhỏ đi lại giữa nhà, lúc lúc lại đằng hắng một hơi cho có tiếng người. Gối chăn đơn chiếc, màu vải cũ duềnh lên ý nghĩ về sự vắng bóng những cơn đau tình ái mà đậm tình đời. Tôi hỏi, sao mệ không nhận con nuôi về ở cho đỡ buồn? Mệ nói, tôi có hai đứa con đấy chứ. Để tôi gọi bọn hắn ra cho cô coi. Chi mô! Nịnh mô!

Chi và Nịnh là hai con mèo.

Mệ nhặt chúng về nuôi từ sọt rác khi còn đỏ hỏn. Mệ đặt tên cho chúng và âu yếm chúng như con trai con gái của mình. Hàng ngày mệ bầu bạn với hai con mèo ấy, ve vuốt và hát cho chúng nghe. Đôi bàn tay nhăn nheo chạm nhẹ vào đám lông trắng xốp như mây của con Chi khiến tôi nghĩ đến một hơi ấm hiếm hoi có thật của mệ tại ngôi nhà cô quạnh này. Mệ nhìn hai con mèo như thác gửi những tâm tư về cuộc sống cô độc, còn tôi nhìn rất lâu vào khoé mắt chi chít dấu chân chim của mệ.

Chúng tôi không nói gì với nhau, im lặng trôi đi trong buổi chiều ấy.

Nguyên Hương