- Ở Việt Nam, việc công nhận và tôn vinh những người có nhiều cống hiến trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật khá rối rắm và không nhất quán:
+ Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân và Nghệ sĩ ưu tú cho những cá nhân có cống hiến đặc biệt trong lĩnh vực biểu diễn nghệ thuật. Phần lớn những người này đều thuộc diện “biên chế nhà nước”, hoạt động trong các tổ chức, cơ quan do nhà nước quản lý;
+ Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam (Hội VNDG Việt Nam) phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian cho những cá nhân có nhiều cống hiến trong lĩnh vực bảo tồn, truyền dạy và phát huy các giá trị văn hóa dân gian, dựa theo tiêu chí công nhận Báu vật nhân văn sống của UNESCO. Theo Quy chế công nhận danh hiệu Nghệ nhân dân gian của Hội VNDG Việt Nam thì: “Nghệ nhân dân gian cần phải hội đủ ba tiêu chuẩn và nghĩa vụ: nắm giữ và thực hành ở trình độ những giá trị, kỹ năng, bí quyết văn hóa - văn nghệ dân gian; sẵn sàng và có khả năng truyền dạy toàn bộ hiểu biết của mình cho thế hệ trẻ; khi được hội yêu cầu, sẵn sàng cung cấp, thực hành, trình diễn những vốn hiểu biết của mình về văn hóa văn nghệ dân gian để hội tiến hành sưu tầm, lưu giữ”.
+ Một số bộ, ngành, địa phương còn có những văn bản công nhận và tôn vinh những nghệ nhân hoạt động trong các ngành nghề thủ công truyền thống (không bao gồm các nghệ sĩ trong lĩnh vực biểu diễn nghệ thuật) với các danh hiệu như: Nghệ nhân (do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và Bộ Văn hóa Thông tin liên kết ban hành ngày 30.5.2002), Nghệ nhân Hà Nội (do UBND thành phố Hà Nội ban hành ngày 2.10.2003) hay Nghệ nhân Nhân dân và Nghệ nhân Ưu tú (do Bộ Công nghiệp ban hành ngày 11.1.2007).
Không gian thưởng ngoạn Âm sắc Việt tại Festival Huế - ảnh H.Nhi
Chính sách tôn vinh, đãi ngộ báu vật nhân văn ở một số nước châu Á
*Ở Nhật Bản:
Theo Luật Bảo vệ Tài sản Văn hóa của Nhật Bản thì Tài sản văn hóa phi vật thể của Nhật Bản được phân thành 3 loại hình:
- Tài sản văn hóa phi vật thể: gồm ca kịch, âm nhạc, nghề thủ công và những sản phẩm văn hóa phi vật thể khác hàm chứa những giá trị lịch sử, nghệ thuật của Nhật Bản.
- Tài sản văn hóa dân gian văn hóa phi vật thể; gồm các thành tố cần thiết cho sự thay đổi nhận thức trong đời sống hàng ngày của người Nhật như: các phong tục, tập quán liên quan đến ẩm thực, trang phục, nơi ăn chốn ở, nghề nghiệp, tôn giáo, tín ngưỡng, các lễ hội thường niên và những vấn đề khác như nghệ thuật trình diễn dân gian, tri thức kỹ thuật dân gian.
- Những kỹ thuật bảo tồn di sản văn hóa: gồm những kỹ thuật truyền thống hoặc các kỹ năng không thể thiếu trong việc bảo tồn các di sản văn hóa.
Năm 1955, Nhật Bản nhận thức rằng việc công nhận Tài sản văn hóa phi vật thể quan trọng hay bình chọn Những kỹ thuật bảo tồn di sản văn hóa cần phải đồng hành với việc công nhận sự cống hiến của những cá nhân (và những nhóm người) nắm giữ tri thức, kỹ năng liên quan đến việc bảo tồn và phát huy tài sản văn hóa phi vật thể. Bởi lẽ, nếu không tiếp cận và có chính sách tôn vinh, đãi ngộ đối tượng này thì không thể bảo tồn và phát huy hiệu quả các di sản văn hóa phi vật thể. Do vậy, năm 1955 Nhật Bản bổ sung thêm vào Luật Bảo vệ Tài sản Văn hóa những điều khoản cụ thể nhằm tôn vinh đối tượng này và gọi họ là Jūyō mukei bunkazai hojisha (Người nắm giữ những di sản văn hóa phi vật thể quan trọng). Tuy nhiên, trên thực tế người Nhật thường sử dụng thuật ngữ Ningen kokuhō (Báu vật sống của quốc gia) để tôn vinh những người này, dù thuật ngữ Ningen kokuhō không xuất hiện chính thức trong các văn bản pháp quy do chính phủ ban hành.
Danh hiệu Ningen kokuhō được phong tặng cho các bậc thầy trong các lĩnh vực: chế tác sản phẩm thủ công truyền thống của Nhật Bản như: làm tranh ukyio-e, làm giấy, rèn kiếm, dệt vải, chế tác đồ gốm; hay những bậc thầy của nghệ thuật biểu diễn matsuri (các loại hình ca kịch truyền thống của Nhật Bản như: noh, kabuki, kagura, taiko…). Tính đến tháng 1.1994, Nhật Bản đã công nhận 7 loại hình thuộc lĩnh vực biểu diễn nghệ thuật (với 36 kỹ năng đặc trưng) và 9 loại hình thuộc lĩnh vực nghệ thuật ứng dụng là Jūyō mukei bunkazai (Tài sản văn hóa phi vật thể quan trọng), với 52 cá nhân và 23 tập thể được tôn vinh là Ningen kokuhō (Nhân gian quốc bảo).
Hàng năm, mỗi Ningen kokuhō được nhận một khoản tài trợ đặc biệt từ chính phủ lên đến 2 triệu yen (xấp xỉ 20.080 USD) để phát triển kỹ năng và kiến thức của họ, giúp họ yên tâm truyền dạy cho truyền nhân kế nghiệp những kỹ năng và kiến thức mà họ đang nắm giữ. Các Ningen kokuhō còn được chính phủ trợ giúp kinh phí cho các chương trình đào tạo kỹ năng và kinh nghiệm cho các thế hệ kế cận, cũng như kinh phí để họ tổ chức những cuộc triển lãm sản phẩm do họ làm ra, hoặc những cuộc trình diễn những kỹ năng và kiến thức của họ cho công chúng thưởng ngoạn.
Chính phủ Nhật Bản cũng trợ cấp một phần tài chính cho các tập thể và các hội bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể đang tiến hành những hoạt động nghiên cứu, truyền dạy và khai thác các di sản văn hóa này.
* Ở Hàn Quốc
Năm 1962, Chính phủ Hàn Quốc ban hành Đạo luật số 961 về Bảo vệ Tài sản Văn hóa nhằm “đấu tranh cho sự trau dồi văn hóa của con người và góp phần vào sự phát triển của văn hóa nhân loại từ việc thừa hưởng văn hóa dân tộc nhờ vào việc bảo vệ những tài sản văn hóa này để bảo đảm cho việc sử dụng tài sản văn hóa của con người”. Đạo luật này phân định 4 loại hình Tài sản văn hóa phải bảo vệ gồm: Tài sản văn hóa vật thể trọng yếu; Tài sản văn hóa phi vật thể trọng yếu; Tài sản văn hóa dân gian và Công trình kỷ niệm. Đến tháng 9.1995, Hàn Quốc đã công nhận 92 di sản văn hóa của đất nước là Tài sản văn hóa phi vật thể trọng yếu với 167 cá nhân và 50 tập thể được tôn vinh là Inganmunhwajae (Nhân gian văn hóa giả).
Việc bình chọn các nghệ sĩ, nghệ nhân để tôn vinh Inganmunhwajae được tiến hành thông qua một Ủy ban Bình chọn Quốc gia gồm những thành viên là các học giả có uy tín, những nghệ nhân nổi tiếng trong nhiều lĩnh vực văn hóa nghệ thuật và các quan chức cao cấp trong Tổng cục Di sản Văn hóa Hàn Quốc. Quy trình bình chọn này bao gồm 6 bước: Nộp hồ sơ ứng cử - Thẩm tra hồ sơ - Trình diễn /thực hành - Thông báo sơ tuyển - Hội đồng bình xét - Thông báo kết quả.
Sau khi được phong tặng, các Inganmunhwajae được hưởng một chế độ đãi ngộ xứng đáng. Họ được chính phủ Hàn Quốc trả lương hàng tháng; được cung cấp bảo hiểm y tế; được khám chữa bệnh miễn phí và được chu cấp tiền phí tổn đám tang khi họ qua đời. Môn đệ đang trực tiếp học nghề từ các Inganmunhwajae cũng được nhận phụ cấp hàng tháng và được hỗ trợ trong các dự án phát triển nghề nghiệp do các Inganmunhwajae truyền dạy. Các Inganmunhwajae còn được hưởng những chăm sóc đặc biệt của chính phủ trong trường hợp đất nước có chiến tranh hay xung đột vũ trang và trong các tình huống khẩn cấp khác. Nếu Inganmunhwajae là người có hoàn cảnh sống khó khăn thì ngoài những đãi ngộ thông thường, họ còn được hưởng trợ cấp bổ sung.
Chính quyền Hàn Quốc phân định các Inganmunhwajae theo 2 lĩnh vực: nghệ thuật diễn xướng dân gian và nghề thủ công truyền thống. Trong lĩnh vực nghệ thuật diễn xướng dân gian lại phân thành 2 loại: cá nhân (individuals) và nhóm người (groups). Tính đến tháng 5.2004, Hàn Quốc đã phong tặng danh hiệu Inganmunhwajae cho 214 cá nhân và nhóm người, trong đó có 34 cá nhân, 114 nhóm người thuộc lĩnh vực nghệ thuật diễn xướng dân gian và 66 nhóm người thuộc lĩnh vực nghề thủ công truyền thống.
Trả lời phỏng vấn tạp chí Tia sáng, ông Kim Sang Ug, Giám đốc Trung tâm Văn hóa Hàn Quốc tại Hà Nội cho biết: “Hàng năm, Tổng cục Di sản (Hàn Quốc) được đầu tư khoảng 450 triệu USD. Trong đó, có khoảng 350 triệu USD dành cho các dự án và kế hoạch bảo tồn, phát huy di sản văn hóa. Trong đó, chúng tôi nhấn mạnh đến văn hóa con người, những “di sản sống” là các nghệ sĩ, nghệ nhân lưu giữ những kỹ năng văn hóa truyền thống trong nghề nghiệp của họ. Chúng tôi có một ủy ban để chọn các nghệ sĩ, nghệ nhân thuộc diện “di sản”, và hàng năm họ có một khoảng lương nhất định, trung bình một nghệ nhân như vậy được hưởng 1.100 USD/tháng. Chưa kể họ còn được hưởng tiền riêng khi tham gia biểu diễn hoặc bán các sản phẩm văn hóa họ tạo ra. Những học trò xuất sắc của các nghệ nhân này cũng có những khoản viện trợ để kế thừa. Các buổi biểu diễn của các nghệ nhân được ghi lại tư liệu hình ảnh, âm thanh rất kỹ lưỡng”.
* Ở Philippines:
Sắc lệnh Tổng thống ban hành năm 1973 có điều khoản National Artists nhằm tôn vinh và đãi ngộ những người có công trong lĩnh vực bảo tồn và phát triển các loại hình văn hóa nghệ thuật của Philippines. Đến năm 1988, Hiệp hội Nghề nghiệp Makati-Ayala của Philippines bắt đầu trao tặng danh hiệu Gawad sa Manlilikha ng Bayan (thường gọi tắt là Gamaba) cho những nghệ nhân xuất sắc hoạt động trong lĩnh vực thủ công và mỹ nghệ. Năm 1992, Philippines ban hành Đạo luật số 7355 về việc trao tặng giải thưởng quốc gia cho các Manlilikha ng Bayan (Mục 3, Đạo luật Cộng hòa 7355), theo đó họ được hưởng lương hàng tháng và được bảo hiểm y tế trọn đời cùng nhiều khoản đãi ngộ về nhà ở và điều kiện làm việc.
* Ở Thailand:
Từ năm 1985, chính phủ Thailand thực thi chương trình National Artists Project để tôn vinh những Nghệ sĩ quốc gia (National Artists) và dành cho họ những ân thưởng xứng đáng bằng vật chất. Theo đó, những Nghệ sĩ quốc gia của Thailand sẽ được nhận lương hàng tháng; được chăm sóc y tế miễn phí suốt đời, được trợ cấp tài chính khi gặp tai nạn; được thăm viếng và tặng quà khi họ đau ốm hoặc trong những dịp đặc biệt; được nhà nước mua bảo hiểm tai nạn và thương tật khi họ gặp tai nạn trong bất kỳ trường hợp nào, kể cả khi họ hành nghề hay đi du lịch và gia đình của họ sẽ được nhận tiền tử tuất sau khi các Nghệ sĩ quốc gia này qua đời. Ngược lại, họ có trách nhiệm bảo tồn và truyền dạy những kiến thức, kỹ năng, bí quyết mà họ đang nắm giữa cho các thế hệ kế cận thông qua các hình thức: trực tiếp giảng dạy, huấn luyện, viết sách, thuyết trình, trình diễn…
Nghệ sĩ Bạch Tuyết - người "giữ lửa" cho cải lương
Chính sách tôn vinh, đãi ngộ nghệ nhân dân gian ở Việt Nam
* Chính sách tôn vinh và đãi ngộ của nhà nước:
Ở Việt Nam, chính sách tôn vinh và đãi ngộ những nghệ nhân có nhiều cống hiến trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể xuất hiện lần đầu tiên trong Luật Di sản Văn hóa (do Quốc hội khóa X thông qua ngày 29.6.2001, có hiệu lực từ ngày 01.01.2002). Chương 3, điều 26 của Luật Di sản Văn hóa quy định: “Nhà nước tôn vinh và có chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân, nghệ sĩ nắm giữ và có công phổ biến nghệ thuật truyền thống, bí quyết nghề nghiệp có giá trị đặc biệt”. Tiếp đến, tại Chương 12, điều 12 của Nghị định 92/2002/NĐ-CP ngày 11.11.2002 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản Văn hóa về việc tôn vinh và chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân, nghệ sĩ có công lao bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể ghi rõ: “Nhà nước tôn vinh và có chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân, nghệ sĩ thông qua các biện pháp sau đây: 1. Tặng thưởng, truy tặng Huân chương, Huy chương, danh hiệu vinh dự nhà nước và thực hiện các hình thức tôn vinh khác đối với nghệ nhân, nghệ sĩ nắm giữ và có công bảo tồn, phổ biến nghệ thuật truyền thống, bí quyết nghề nghiệp thuộc di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu theo quy định của pháp luật; 2. Tạo điều kiện và hỗ trợ một phần chi phí cho các hoạt động sáng tạo, biểu diễn, trưng bày, giới thiệu và tiêu thụ sản phẩm đối với nghệ nhân, nghệ sĩ nắm giữ và có công bảo tồn, phổ biến nghệ thuật truyền thống, bí quyết nghề nghiệp thuộc di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu; 3. Trợ cấp sinh hoạt hàng tháng và một số ưu đãi khác đối với nghệ nhân, nghệ sĩ đã được phong tặng danh hiệu vinh dự nhà nước có thu nhập thấp, hoàn cảnh khó khăn và vùng đặc biệt khó khăn theo quy định của pháp luật”.
*Thực trạng triển khai chính sách tôn vinh và đãi ngộ ở Việt Nam