Từ năm 2009, Khoa đã được Ban Giám đốc BV đưa vào đề án quy hoạch phát triển thành trung tâm. Đây chính là động lực để cán bộ khoa nỗ lực hoạt động về chuyên môn, đầu tư thiết bị phục vụ bệnh nhân.

Áp dụng kỹ thuật  cao tại Trung tâm Răng hàm mặt BVTW Huế 

PGS.TS. Bác sĩ Nguyễn Hồng Lợi, Giám đốc Trung tâm Răng hàm mặt nhớ rõ từng bước phát triển của khoa cho đến khi trở thành trung tâm, nhưng bước chuyển biến quan trọng nhất từ năm 2006. Thời điểm này, BV được xây dựng khu kỹ thuật cao ODA, Khoa đã có khu điều trị với 8 ghế máy nha khoa, máy Xquang răng và hệ thống labo răng giả khép kín cùng khu điều trị nội trú 30 giường bệnh, hệ thống phòng mổ chuyên khoa với trang thiết bị, dụng cụ máy tương đối hiện đại. Khoa phát triển đồng bộ cơ sở vật chất và các lĩnh vực sâu của chuyên ngành. Đây là nền tảng cho các nghiên cứu khoa học, đào tạo đại học, sau đại học.

“Dù chưa phát triển thành trung tâm, nhưng năm 2010, Khoa đã xây dựng một đơn nguyên kỹ thuật cao hoàn chỉnh: Implant, chỉnh nha, phục hình sứ, laser nha khoa và hoạt động theo mô hình của trung tâm trong tương lai với các lĩnh vực: Nha khoa tổng quát, nha khoa kỹ thuật cao và phẫu thuật tạo hình hàm mặt. Năm 2011, phối hợp với Tổ chức Smilie Traiin, Orphan Voice (Hoa Kỳ) thực hiện phẫu thuật trẻ em bị hở môi-vòm miệng. Bước đầu xây dựng trung tâm điều trị đa chức năng”. Tiến sĩ Lợi nói.

Năm 2016, quy hoạch phát triển BVTW Huế được Chính phủ, Bộ Y tế phê duyệt chỉ rõ danh mục các chuyên khoa phát triển lên trung tâm, trong đó có Khoa Răng hàm mặt. Ngày 1/10/2017, Khoa Răng hàm mặt trở thành Trung tâm Răng hàm mặt gồm ba khoa và hai phòng chức năng với 36 cán bộ, trong đó có 1 PGS, 2 TS, 4 bác sĩ chuyên khoa cấp II, bao gồm 60 giường bệnh và thiết bị khá hiện đại.

"Phấn đấu thực hiện y đức, nâng cao chuyên môn kỹ thuật là tiêu chí hàng đầu của trung tâm. Trung tâm triển khai nhiều kỹ thuật cao ứng dụng các công nghệ hiện đại: Sử dụng Laser Diode, Lase CO2- Fractional trong điều trị bệnh nha chu, viêm nhiễm miệng mạn tính, phẫu thuật tiền phục hình, sẹo xấu lồi, phì đại và các khối u lành tính vùng khoang miệng. Ứng dụng nhiều loại Imlant nha khoa thế hệ mới với các kỹ thuật nâng xoang, ghép xương tự thân, mô liên kết và vật liệu xương sinh học trong phục hình cấy ghép nha khoa hiện đại. Phẫu thuật tạo hình hàm mặt là mũi nhọn hàng đầu trong chuyên khoa", PGS. TS. Nguyễn Hồng Lợi cho biết.

Ngoài các phẫu thuật thông thường, như chấn thương, bệnh lý, viêm nhiễm, dị tật bẩm sinh, trung tâm còn phối hợp với các trung trâm, khoa liên quan giải quyết thành công các bệnh phức tạp, như: phẫu thuật bóc tuyến mang tai bảo tồn dây thần kinh VII, áp dụng các biện pháp vạt da cằm, vạt cuống mạch-xương vai, vạt cân cơ thái dương, vạt cơ ngực lớn, vạt tạo hành vi phẫu, ung thư vùng mặt…; đặc biệt, trung tâm thực hiện thành công phẫu thuật sỏi tuyến mang tai bằng laser nội và siêu âm tăng sáng truyền hình. Đơn vị góp phần lớn trong điều trị trẻ khuyết tật.

Bên cạnh phẫu thuật kết hợp ngữ âm trị liệu, trung tâm sử dụng khí cụ can thiệp sớm khối mũi, môi cho trẻ, phối hợp chỉnh nha cố định và tháo lắp sớm cho bệnh nhân dị tật khe hở môi-vòm miệng, sử dụng chẩn đoán hình ảnh với máy CT conebeam thế hệ 3 phục vụ chẩn đoán và điều trị các bệnh nhân chấn thương, khối u, bệnh lý mũi xoang, cấy ghép Imlant nha khoa, chỉnh nha, nội nha, nha chu và một số bệnh lý khác.

PGS. TS. Nguyễn Hồng Lợi cho biết, trung tâm không chỉ là cơ sở thực hành đào tạo sinh viên, bác sĩ sau đại học, các PGS, TS và bác sĩ chuyên khoa II còn tham gia giảng dạy, hướng dẫn luận văn, luận án với Khoa Răng hàm mặt, Trường đại học Y dược Huế; cùng Trung tâm Đào tạo BVTW Huế và các chuyên gia tại các trường đại học và các viện đầu ngành răng hàm mặt ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh tổ chức nhiều lớp đào tạo liên tục về chỉnh nha căn bản, chỉnh nha nâng cao, nha khoa hiện đại, phẫu thuật nha chu, phẫu thuật hàm mặt, xây dựng đào tạo giảng dạy lý thuyết và lâm sàng hoàn chỉnh theo kỹ thuật số hóa. Các bác sĩ của trung tâm được đào tạo chuyên sâu về Impllant nha khoa, chỉnh nha, laser nha khoa, phẫu thuật tạo hình tại Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore đã triển khai ứng dụng đạt hiệu quả tại BVTW Huế. 30 đề tài khoa học cấp cơ sở, cấp tỉnh và Đại học Huế đã giúp ích nhiều trong điều trị bệnh nhân

Đinh Hoàng Xuân Hồng