Chủ tịch nước Lê Đức Anh thăm các đơn vị của Hải quân vùng 3, ngày 9/1/1996.

Luôn dự đoán trước tình hình

Đại tướng Lê Đức Anh đã công tác, chiến đấu trên nhiều mặt trận từ Nam ra Bắc; ông từng làm Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, rồi Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh miền Nam, Tư lệnh Quân khu 9, Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh miền Nam, Phó Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh, ông đã tham gia nhiều sự kiện quan trọng, trực tiếp chỉ huy nhiều chiến dịch lớn. Là Tư lệnh Bộ đội tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, ông có nhiều đóng góp hết sức to lớn giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng của Tập đoàn Pol Pot - Ieng Sary. Sau khi đất nước Campuchia được giải phóng, năm 1982, ông nhận nhiệm vụ làm Trưởng Ban lãnh đạo Đoàn chuyên gia Việt Nam giúp Campuchia. Năm 1984, ông được phong quân hàm Đại tướng, sau đó giữ các trọng trách: Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam (1986), Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (từ tháng 12/1986 đến 1991). Ông được bầu làm Chủ tịch nước nhiệm kỳ 1992-1997.

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Đại tướng Lê Đức Anh luôn thể hiện tâm thế của người chiến sĩ đứng vững trên thế tiến công, chủ động tấn công trong suy nghĩ và hành động, lăn lộn với thực tế chiến trường để tìm ra những cách đánh hiệu quả, giảm hy sinh xương máu của chiến sĩ, đồng bào mà vẫn chiến thắng kẻ thù.

Dấu ấn lớn nhất của Đại tướng Lê Đức Anh là ông có tầm nhìn rất sâu về chiến lược, bao giờ cũng dự đoán trước tình hình, nên trong mọi tình huống không bị động, mà chủ động ứng phó được ngay.

Như thời điểm 30/4/1977, chiến trường Tây Nam phức tạp, ông về làm Tư lệnh Quân khu 9. Sau hòa bình Bộ Quốc phòng cho giảm quân số rất nhiều, nhưng khi về Quân khu 9 ông lại thành lập Sư 30 và chọn trung đoàn chủ chốt trong thời kỳ chống Mỹ để giữ lại,  kể cả anh em miền Bắc ông cũng không cho ra quân. Khi quân Pol Pot đánh sang thì Sư 30 đã chiến đấu rất hiệu quả. Điều đó chứng tỏ ông đã nắm trước được tính hình nên không hề bị động.

Năm 1990-1991, thời điểm Liên Xô tan rã, ông đã gọi tư lệnh các quân khu lên, lúc đó tôi là tư lệnh quân khu 3. Tôi còn nhớ hôm ấy ông chỉ nói một câu: Phải hết sức theo dõi tình hình Liên Xô, nếu Liên Xô đổ thì thế giới sẽ có biến động rất lớn, các nước XHCN có thể mất,  nên Việt Nam phải hết sức chú ý. Ông nhấn mạnh: Quân đội phải giữ nghiêm kỷ luật, có lệnh của Bộ Quốc phòng thì mới được hành động. Vì thế, khi Liên Xô sụp đổ chúng tôi không thấy bị bất ngờ vì đã được ông dự báo trước 6 tháng. Quân đội Việt Nam lúc đó rất vững vàng. Chúng ta đều thấy, quân đội ổn định, vững vàng thì đất nước sẽ ổn định.

Cấp dưới được “cãi lại” đến cùng

Điểm đặc biệt của ông chính là tính dân chủ, lắng nghe dù đó là cấp dưới của mình. Cụ thể khi thảo luận về một trận đánh hay một chiến dịch, ông Lê Đức Anh đều đề nghị mọi người phát biểu. Nếu còn gì bất đồng, cấp dưới có thể “cãi lại” đến cùng. Nếu ông thấy mình còn thiếu sót mà cấp dưới góp ý đúng thì nghe ngay. 

Lần “cãi lại” gay gắt nhất giữa tôi và ông Lê Đức Anh vào năm 1978, khi Sư đoàn 330 bàn cách diệt Pol Pot ở núi Phú Cường (An Giang). Ban đầu, cách đánh tiến công, bao vây Pol Pot của ông Lê Đức Anh đưa ra tôi thấy không phù hợp, nên khuyên ông cần cân nhắc thật kỹ. Ban đầu ông không chịu, nhưng khi thấy tôi phân tích hợp tình, hợp lý, ông lại nghe và quyết định đánh theo phương án của chúng tôi. Nhờ đánh trận đấy, Sư đoàn 330 đã tạo “thương hiệu”, đi đến đâu lính Pol Pot đều sợ và bỏ chạy.

Cuộc tranh luận gay gắt khác giữa tôi và ông Lê Đức Anh xảy ra trong cuộc chiến đấu chống Mỹ vào năm 1972. Trước khi bước vào một chiến dịch, đơn vị của ta bị B52 càn cả một ngày khiến một tiểu đoàn hy sinh hơn 660 người, gần như hết lực lượng. Đến ngày hôm sau, ông Lê Đức Anh vẫn quyết thực hiện chiến dịch. Nhưng khi chúng tôi tham mưu cho ông là không đánh được vì lực lượng chưa được củng cố, nếu đánh sẽ tiếp tục bị tổn thất, ông đã nghe và quyết định lùi lại thêm vài ngày.

Người có tư tưởng đổi mới

Đại tướng Lê Đức Anh là người luôn có tư tưởng đổi mới. Trong thời bình, ông luôn có quan điểm xây dựng mối quan hệ với các nước thật tốt để đất nước mãi mãi hòa bình. Khi tôi sang Mỹ, ông dặn: Với tù binh, đây là vấn đề nhân đạo, không phải vấn đề chính trị, Việt Nam sẽ giúp Mỹ tìm được hài cốt lính Mỹ chết ở Việt Nam. Đây là sự nhân đạo của Việt Nam, không đặt vấn đề đền bù. Và khi tôi nói điều này, người Mỹ rất thích. 

Đại tướng Lê Đức Anh đã cống hiến trọn đời cho đất nước, cho Đảng. Năm 1992, ông được Quốc hội bầu làm Chủ tịch nước và là người đề xuất phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng. Ông không chỉ là một vị tướng tài ba, bản lĩnh, có tầm nhìn sâu rộng, luôn đoán được trước tình hình, mà còn là một người cộng sản mẫu mực, khiêm tốn, không bao giờ tư lợi cho riêng mình.

Theo Đại đòan kết