Gia đình nhiều thế hệ tại Hội thi về gia đình hạnh phúc. Ảnh: Minh Hiền

Trong truyền thống, chúng ta tự hào về dân tộc Việt. Sử sách từng ghi và tôn vinh nhiều giá trị: thông minh, đoàn kết, yêu nước, thương yêu đùm bọc, chịu thương chịu khó, kính trên nhường dưới… Những giá trị này, có thể soi vào bất cứ đâu, bất cứ thời điểm nào chúng ta cũng thấy. Có lẽ cũng chẳng phải riêng dân tộc Việt mà dân tộc nào cũng vậy. Đây là “cái lý”, nền tảng để một dân tộc tồn tại và phát triển.

Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, có nhiều giá trị cần phải điều chỉnh, bỏ đi những gì không phù hợp, thêm những nội hàm mới phù hợp hơn với hoàn cảnh mới. Hoàn cảnh bây giờ không chỉ trong một địa phương, một đất nước, mà có khi với cả thế giới.

Nói như thế để không phủ nhận những quy định về chuẩn mực đạo đức mà các cơ quan quản lý Nhà nước ban hành; các tổ chức hội đoàn đưa ra các tiêu chí cam kết thực hiện; cộng đồng xã hội bàn thảo xây dựng… Tuy nhiên có một điều, những gì ban hành, đưa ra bàn thảo, cam kết… cần phải sát với thực tế, tức là dễ thực hiện, cần cho cuộc sống… chứ không đơn thuần là những lời nói suông, hô hào chung chung, có khi phản tác dụng, lãng phí.

Văn hóa là cái khó lượng hóa nhưng dễ nhận thấy nhất. Để có một nền tảng đạo đức tốt, văn hóa ứng xử đẹp… theo người viết bài này không phải đi từ sự hô hào, vận động mà từ giáo dục. Một người có học thức, hiểu biết, thường có cách ứng xử trước một tình huống tốt hơn những người ít học, ít hiểu biết (nói về cái phổ biến). Tức là người ta nhận biết những giá trị nào đó mà chúng ta phải làm, phải theo đuổi - ứng xử theo cách này, làm theo cách này chứ không làm theo cách khác. Chỉ đi từ giáo dục không cũng chưa đủ mà từ nền tảng vật chất nữa.

Gần đây, có nhiều quy định về ứng xử văn hóa được ban hành và dự định ban hành đã gây không ít băn khoăn trong dư luận. Hai ví dụ sau đây cho thấy điều này. Cách đây chưa lâu là Đề án Văn hóa công vụ, trong đó có chuyện quy định công chức viên chức trong ứng xử với lãnh đạo cấp trên, không nịnh bợ, lấy lòng vì động cơ không trong sáng. Nịnh bợ, lấy lòng, có lẽ ai cũng có thể nhận biết được thông qua hành động, cử chỉ, lời nói… Nhưng để “chỉ mặt đặt tên” thì rất khó. Càng khó hơn khi xử lý hành vi này vì nó rất khó lượng hóa. Không phải chỉ trong công sở đâu mà trong mọi môi trường, hành vi nịnh bợ rất khó được số đông chấp nhận. Thế thì cứ để đạo đức xã hội điều chỉnh. Anh nịnh bợ, anh sống không thật, không trong sáng, cá nhân vụ lợi... sẽ không gieo được niềm tin vào mọi người. Mọi người sẽ biết cách ứng xử với anh theo một cách nào đó phù hợp – ví dụ khinh bỉ, coi thường, hạn chế giao tiếp… Luật hóa mà không chỉ mặt đặt tên được thì luật hóa để làm gì? Có lẽ chính vì điều này mà dư luận bàn tán rất nhiều mà phần đông là cho rằng không cần thiết.

Mới đây, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành thí điểm “Bộ tiêu chí ứng xử trong gia đình”. Đọc nội dung của bộ tiêu chí, người viết có cảm nhận nhiều điều không cần thiết. Bởi những quy định này đã có ở đâu đó trong các bộ luật khác; trong các quy ước làng xã, cộng đồng, thân tộc…Và hơn hết, nó là những yếu tố cốt lõi trong văn hóa Việt. Nếu đã có rồi thì chúng ta đề ra quy định làm gì? Đó là chưa nói có nhiều điểm không phù hợp với thực tế. Ví dụ quy định: “Tiêu chí ứng xử của cha mẹ với con, ông bà với cháu: Gương mẫu; Yêu thương. a) Đối tượng áp dụng: - Cha mẹ bao gồm: cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, cha dượng, mẹ kế, cha mẹ vợ, cha mẹ chồng; - Ông bà bao gồm: ông bà nội, ông bà ngoại. b) Nội dung tiêu chí ứng xử cụ thể: - Cha mẹ, ông bà làm gương tốt cho con, cháu trong cử chỉ, hành động, lời nói; - Quan tâm, chăm sóc con cháu khi con cháu còn nhỏ; trao truyền các giá trị truyền thống, kinh nghiệm sống cho con cháu; giáo dục, động viên con cháu giữ gìn nền nếp, gia phong; có tình cảm gắn bó tha thiết”.

Trong thực tế, rất ít cha mẹ, ông bà đối xử không tốt với con cháu trong gia đình. Tính cả hàng chục triệu gia đình ở Việt Nam, nếu có bố mẹ, ông bà không thương yêu con cháu, ghét bỏ con cháu… cũng chỉ là số rất ít. Cái lẽ đương nhiên nó đã thế, như thế rồi thì quy định làm gì? Ở đây cũng chưa nói tới quy định phạm vì điều chỉnh: “Ông bà bao gồm: ông bà nội, ông bà ngoại”.  Thế thì ở hàng ông bà cố thì sao?

Phần ứng xử vợ chồng: “ Nội dung tiêu chí ứng xử cụ thể: - Vợ chồng có tình cảm trước sau như một, không thay đổi; - Chăm sóc nhau; cùng có trách nhiệm trong nuôi dạy con, làm việc nhà, đóng góp tài chính gia đình; - Lắng nghe, cùng nhau thảo luận những vấn đề chung, hòa nhã với nhau".

Đây là cách ứng xử bình thường trong một gia đình. Là lẽ đương nhiên để một gia đình tồn tại. Nó đương nhiên rồi thì không cần đến chuyện “bảo ban” họ phải làm thế này làm thế kia. Nhưng giả sử như vợ chồng không trước sau như một thì sao? Biết bao nhiêu cặp vợ chồng ly hôn? Thậm chí cũng chẳng cần ly hôn nhưng không yêu thương nhau. Quy định như vậy là hết sức phi lý và viển vông, bởi không có cái gì trong đời sống là bất biến cả.

Không ban hành quy định thì thôi, đã ban hành thì phải triển khai thực hiện. Không biết những quy định như vậy nó đi vào cuộc sống như thế nào nhưng muốn triển khai, có khi nó huy động một hệ thống nhân lực, vật lực vận hành hết sức đồ sộ và tốn kém. Có khi, sự lãng phí chính là ở chỗ này.

Bình Sơn