Câu chuyện “thừa thầy thiếu thợ” không mới, nhưng chưa bao giờ cũ, bởi thực tế nó đã và đang tạo áp lực cho nhiều SV trước nỗi lo tìm việc sau khi tốt nghiệp. Ông nghĩ gì về vấn đề này?

SV ĐH Nông lâm trong giờ thực hành

Tôi đồng ý với câu chuyện SV khó tìm việc sau khi tốt nghiệp, điều đó phần nào chứng tỏ công tác đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Nhà trường phổ thông và gia đình chưa làm tốt việc định hướng nghề nghiệp cho thanh thiếu nhi. Vì thế học sinh còn chọn nghề theo cảm tính, theo độ “hot” thời điểm, dẫn đến tình trạng SV tốt nghiệp các ngành quản lý nhiều, còn các lĩnh vực kỹ thuật phục vụ sản xuất lại thiếu.

Theo tôi, trước hết, mỗi ngành đào tạo phải xây dựng mối liên hệ gần gũi để xác định thị trường lao động. Khi đã xác định được chuẩn đầu ra, khung chương trình phải thể hiện nội dung từng ngành đào tạo đạt được các chuẩn đó ở mức độ từ thấp đến cao. Hệ thống các môn học được bố trí, xây dựng phù hợp để người học được trang bị đầy đủ yêu cầu đó và bắt kịp sự thay đổi trong thị trường lao động do tiến bộ kỹ thuật và nhu cầu phát triển của xã hội.
Nhiều năm làm công tác giảng dạy, nghiên cứu và quản lý, Phó Giáo sư còn có điều kiện quan hệ và hợp tác với các trường ĐH trong và ngoài nước. Vậy theo ông, chúng ta cần có những giải pháp gì cải thiện vấn đề này?
Theo tôi, sự phát triển của ĐH hiện nay là thường xuyên chăm lo nâng cao chất lượng. Nâng cao chất lượng đào tạo, liên quan đến nhiều yếu tố. Ở đây tôi chỉ đề cập đến các yếu tố nội tại, tức là yếu tố chủ quan của trường ĐH. Theo tôi có 4 nhóm giải pháp chính:
Đầu tiên, không ngừng cải tiến chương trình. Đây là yếu tố cốt lõi của một trường ĐH, phải xuất phát từ nhu cầu thị trường lao động để người học đáp ứng được yêu cầu thực tiễn sau khi ra trường. Tiếp đó, xây dựng đội ngũ, nhất là đội ngũ cán bộ giảng dạy có đủ khả năng đảm nhận chương trình đào tạo thường xuyên cập nhật và quốc tế hóa. Bên cạnh đó, cần quan tâm xây dựng cơ sở vật chất, đặc biệt đối với các ngành đào tạo kỹ thuật bao gồm các phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu, thực hành… Về vấn đề này, Trường ĐH Nông Lâm Huế từ những ngày đầu đã xác định 4 địa bàn đào tạo kỹ sư nông nghiệp là: giảng đường, phòng thí nghiệm, trại nghiên cứu thực hành và thực tiễn sản xuất ở xã hội. Ở mỗi địa bàn đòi hỏi về CSVC khác nhau để người học vừa hiểu lý thuyết, vừa có năng lực nghiên cứu và thực hành nghề nghiệp.
Cuối cùng là việc tổ chức thực hiện quá trình đào tạo ở nhà trường phải đồng bộ và thường xuyên cải tiến, nâng cao. Đó là khả năng quản trị ĐH để thể hiện cả hệ thống trong nhà trường đều phục vụ cho việc nâng cao chất lượng đào tạo.
Những năm gần đây, tỷ lệ HS chọn thi vào Trường ĐH Nông lâm Huế cao, vì các ngành học của trường phù hợp với nhu cầu xã hội đang cần, như: Chăn nuôi, Thủy sản, Thú y… Là một trong những lãnh đạo của trường, ông có thể chia sẻ vấn đề này với bạn đọc?
Trong những năm gần đây, tình hình kinh tế của thế giới và trong nước có nhiều biến động. Mặc dù vậy, lĩnh vực nông nghiệp, nhu cầu thị trường lao động vẫn còn cao. Các ngành Chăn nuôi, Thú y, Nuôi trồng thủy sản, Trồng trọt,… tỷ lệ SV có việc làm ngay sau khi ra trường vẫn cao, có ngành đến 100%. Một số ngành, trường không cung cấp đủ lượng SV tốt nghiệp cho các công ty, các tổ chức sản xuất đến tuyển dụng. Chính vì điều này mà số lượng SV thi vào Trường ĐH Nông Lâm Huế ngày càng nhiều. Năm 2014 có trên 13.000 hồ sơ đăng ký dự thi vào trường, trong kế hoạch tuyển chọn 1.700 SV. Trường không ngừng phấn đấu nâng cao chất lượng đào tạo để cung cấp nguồn nhân lực cho nhu cầu của xã hội, cũng như sự phát triển của nhà trường trong thời gian tới.
Xin cảm ơn ông.
Phước Châu (thực hiện)