Theo ông Cường, trước đây cha, mẹ ông có quản lý và sử dụng 1 thửa đất tại khu vực 3, thị trấn Tứ Hạ với diện tích là 1.616m2. Cha, mẹ ông sinh được 6 người con. Năm 1953 và 1964, cha, mẹ ông lần lượt qua đời nhưng không để lại di chúc. Năm 1970, anh ruột của ông là Hoàng Vĩnh Cẩn từ trong nam ra sinh sống tại mảnh đất này cùng với ông. Năm 1981, ông vào làm việc tại TP Huế, rồi lập gia đình ra ở riêng. Các chị của ông cũng lấy chồng và theo chồng. Tuy nhiên, đến ngày giỗ, kỵ cha mẹ, tất cả anh chị em trong nhà đều cùng về sum họp tại ngôi nhà chung này.

Thế nhưng, không biết từ khi nào, anh trai ông là Hoàng Vĩnh Cẩn đã một mình đi làm giấy tờ nhà đất thửa đất này và đã được UBND huyện Hương Trà cấp giấy CNQSD đất vào ngày 21/11/2005. Đến khi nghe tin ông Cẩn đang chuẩn bị chuyển nhượng một số diện tích, ông mới biết và khiếu nại. Ông cho rằng, UBND huyện Hương Trà cấp giấy CNQSD đất thửa đất chung này cho riêng ông Cẩn là sai. Ông đã gửi đơn khiếu nại đến UBND huyện Hương Trà, nhưng gần 1 năm nay không được xem xét, giải quyết...
 
Lật lại giấy tờ hồ sơ đất tại UBND thị trấn Tứ Hạ, chúng tôi nhận thấy, thửa đất ông Cường đang tranh chấp với ông Cẩn, theo bản đồ 299 đo đạc năm 1985 là thửa số 275, tờ bản đồ số 1 với diện tích là 1.045m2. Tại bản đồ 202, thửa đất trên là thửa số 20, tờ bản đồ số 9 với diện tích là 1.616m2 và được UBND huyện Hương Trà cấp GCNQSD đất số 911159, ngày 21/11/2005.
 
Ông Hoàng Thắng, Chủ tịch UBND thị trấn Tứ Hạ cho biết, ngày 22/10/2009, UBND thị trấn Tứ Hạ nhận được đơn tranh chấp đất đai của ông Hoàng Cường với ông Hoàng Vĩnh Cẩn. Ngày 23/11/2009, UBND thị trấn Tứ Hạ tổ chức buổi hoà giải giữa 2 bên có sự tham gia đông đủ của 6 anh, chị ông Cường. Qua buổi hoà giải, ông Cường yêu cầu ông Cẩn nhượng lại cho ông 1/3 số đất trong tổng diện tích đất mà cha mẹ để lại. Tuy nhiên, ông Cẩn không đồng ý nhượng lại 1/3 diện tích đất này cho ông Cường với lý do: Trước đây, bố mẹ các ông để lại một thửa đất phân thành 2 lô; một lô để lại cho ông Hoàng Vĩnh Phưởng (em cùng cha khác mẹ với ông Cẩn), một lô hiện nay ông đang quản lý sử dụng. Trong quá trình này, ông đã nuôi dưỡng em út là ông Cường từ nhỏ, sau đó ông đã đồng ý cho ông Cường làm nhà ở trong vườn, nhưng ông Cường đã không làm nhà ở và vào làm việc tại TP Huế.
 
Tại buổi hoà giải, ông Phưởng, bà Hoàng Thị Mãnh (chị gái ông Cẩn), bà Hoàng Thị Phiến (em gái ông Cẩn) không có ý kiến gì và giao quyền cho 2 anh em ông Cẩn, ông Cường tự thoả thuận với nhau. Riêng bà Hoàng Thị Thoại (em ông Cẩn) yêu cầu ông Cẩn để lại cho ông Cường 1/3 diện tích đất mà ông Cẩn đang quản lý, sử dụng. Các thành viên trong hội đồng hoà giải đã phân tích cho các bên rõ các quy định của pháp luật về đăng ký, quản lý, sử dụng đất đai, thừa kế; yêu cầu các bên tự thoả thuận. Tuy nhiên, giữa ông Cẩn và ông Cường vẫn không tự thoả thuận được. Chiếu theo điều 135, 136 của Luật Đất đai; điều 159 của Nghị định 181/2004/NĐ-CP và Quyết định số 1490/2007/QĐ-UBND của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, UBND thị trấn Tứ Hạ đã hướng dẫn ông Cường gửi đơn đến TAND huyện Hương Trà để được giải quyết theo đúng thẩm quyền.
 
Không hiểu lý do gì, ông Cường vẫn cứ gửi đơn đến UBND huyện Hương Trà yêu cầu huỷ giấy CNQSD đất đã cấp cho ông Cẩn. Qua làm việc với các cơ quan chức năng chúng tôi nhận thấy, việc khiếu nại của ông Cường đối với UBND huyện Hương Trà là không có cơ sở, bởi theo Điều 646 của Bộ luật Dân sự về thời hiệu khởi kiện thừa kế, ông Cường đã hết thời hiệu khởi kiện (10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế). Ông Cường chỉ có thể áp dụng khoản 2.4, mục I của Nghị Quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao để yêu cầu toà án giải quyết theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung. Tuy nhiên, ông cần có văn bản xác nhận của các đồng thừa kế thửa đất của ông Cẩn đang quản lý, sử dụng là tài sản chung. Toà án sẽ xem xét đơn khởi kiện của ông để giải quyết.
 
 
Điều 136, Luật Đất đai năm 2003 quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai như sau: Tranh chấp đất đai đã được hoà giải tại Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn mà một bên hoặc các bên đương sự không nhất trí thì được giải quyết:
 
1. Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Toà án nhân dân giải quyết...
 
 
Hải Huế