Cho đến đầu tháng 8/2010, sau dự Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ VIII về, theo anh chị em nhà văn Huế về Trại sáng tác Văn học nghệ thuật “Về nguồn”, tôi mới được lần đầu về với làng Mỹ Lợi. Lịch sử làng Mỹ Lợi như một pho cổ tích xúc động kể mãi không hết. Ngay việc phát triển văn học nghệ thuật của tỉnh Thừa Thiên Huế 60 năm qua, Mỹ Lợi cũng là nơi phát tích…
Người già làng Mỹ Lợi kể, làng được thành lập năm 1562 do các ngài khai canh, có lẽ là ngư dân từ làng Lương Niệm, Sầm Sơn, Thanh Hoá di cư vào Nam theo chúa Nguyễn Hoàng (?). Những ngài khai canh ấy đã chọn mảnh đất nơi đầu sóng đầy gian nan để căm dùi. Có lẽ họ rất tin vào sức lực và trí tuệ của mình. Làng có diện tích tự nhiên 9 km2, với 1400 hộ, 6000 nhân khẩu thôi, nhưng đã để lại cho đời những sản phẩm thành thương hiệu nổi tiếng khắp nước: nghề vườn có cau Mỹ Lợi, nghề rú có khoai mài Mỹ Lợi, nghề tằm tơ có các sản phẩm đủi, lụa, thao, vải Mỹ Lợi. Nón lá Mỹ Lợi đã có thời cạnh tranh với nón Huế. Nghề biển đầm có các loại cá dìa, cá mú, tôm sú, cá hanh, cá buôi, tôm rằn, cá thu, cá ngừ... nổi tiếng. Theo nhà văn Chu Sơn thì cau Mỹ Lợi nổi tiếng từ hơn trăm năm trước. Muốn trồng cau phải đào vồng trên cát. Mỗi vồng rộng chừng 3 mét, giữa vồng là ao để thoát nước. Mỗi vồng trồng hai hàng cau, trầu trồng leo lên cau. Dưới tán cau trồng xen bao nhiêu loại cây ăn quả như cam, quýt, chuối, dứa, hoàng tinh... Trồng như thế hiệu quả kinh tế trên một sào đất rất cao. Đất Thừa Thiên có cau Nam Phổ nổi tiếng (mua vôi chợ Quán chợ Cầu/ mua cau Nam Phổ mua trầu chợ Dinh), nhưng cau Nam Phổ trồng trên đất thịt không ngon bằng cau Mỹ Lợi trồng trên cát pha mùn. Cau Mỹ Lợi trái tròn, ruột nhiều, tang mỏng, mềm và ngọt. Khoai mài Mỹ Lợi tiến vua. Người Mỹ Lợi xưa vào rú đào khoai mài tiến cho phủ chúa, cung vua vào các dịp tế lễ giỗ chạp để được miễn giảm các khoản thuế, sưu dịch.
Văn bản chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa được làng Mỹ Lợi cất giữ. Ảnh: tuoitre.com
Trên mảnh đất cát hẹp, thiên tai khắc nghiệt ấy, trải 450 năm, dân làng Mỹ Lợi bao đời với tài năng và tầm nhìn xa rộng, đã tạo lập nên một làng quê sầm uất, trú phú và tiếng tăm. Đình làng Mỹ Lợi là một chứng nhân văn hoá lịch sử. Đình được xây dựng cách đây 200 năm (1808) là nơi hội họp, sinh hoạt của bà con nhân dân trong các dịp Tết, lễ. Ngày 1/5/1930, đây là nơi đã treo cao lá cờ Đảng của Chi bộ Mỹ Lợi (lá cờ Đảng đầu tiên được treo lên ở Thừa Thiên Huế). Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, Mỹ Lợi là một pháo đài cách mạng. Xã Vinh Mỹ có 131 liệt sĩ, 32 thương bệnh binh, 128 gia đình có công với nước. Làng Mỹ Lợi được Nhà nước phong tặng Anh hùng lực lượng vũ trang, Bằng Có công với nước. Đình làng Mỹ Lợi còn là nơi lưu giữ nhiều giá trị văn hoá, giá trị lịch sử quan trọng của đất nước. Người Mỹ Lợi lưu giữ trong đình làng của mình một văn bản bằng chữ Hán, được lập cách đây 250 năm, tiếp tục khẳng định chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam.Văn bản có khuôn dấu và chữ ký rõ ràng, khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Văn nghệ sĩ Huế về thăm làng Mỹ Lợi. Ảnh: tapchisonghuong
Cổ tích làng Mỹ Lợi còn nhiều chuyện cảm động về văn chương nghệ thuật. Làng Mỹ Lợi nhỏ bé ấy chính là cái nôi sinh thành của Hội Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế hôm nay. Trong buổi ra mắt Trại sáng tác Văn học nghệ thuật “về nguồn” ở Mỹ Lợi ngày 11/8/2010, anh Hoàng Văn Giải, Bí thư Huyện uỷ Phú Lộc, anh Trần Luyến, Bí thư - Chủ tịch xã Vinh Mỹ và bác Lê Quý Mỹ, 84 tuổi, lão thành cách mạng làng Mỹ Lợi, nguyên Bí thư Huyện uỷ Phú Lộc, đã kể nhiều chuyện cảm động về cuộc “họp bạn” thành lập Phân hội Văn học nghệ thuật kháng chiến Thừa Thiên Huế tháng 10 năm 1950 ở làng Mỹ Lợi. Bác Mỹ kể rằng, cách đây 60 năm, giặc Pháp đánh phá rất ác liệt, tiếng đại bác địch nổ bốn phía, Mỹ Lợi lại cách phá trở đò, nhưng cuộc “họp bạn” văn nghệ vẫn được tổ chức tại nhà thờ họ Lê làng Mỹ Lợi. Cố nhà văn Bùi Hiển, lúc ấy là đại diện Đoàn văn hoá kháng chiến Liên Khu 4 được cử vào để giúp đỡ phong trào văn nghệ Thừa Thiên. Có tới hơn 50 người dự họp. Anh Trịnh Xuân An đọc báo cáo tình hình văn nghệ. Bác Lê Quý Mỹ xúc động nhớ lại những tên tuổi văn nghệ thời đó đên hôm nay còn vang vọng như Bùi Hiển, Trần Hoàn, Phạm Duy, Trịnh Xuân An, Hoàng Liên, Hoàng Tuấn Nhã, Phan Nhân… Ông Hoàng Anh, Chủ tịch tỉnh, ông Trần Thanh Chữ, Trưởng ty Văn hoá tỉnh Thừa Thiên lúc đó đã về trực tiếp chỉ đạo hội nghị. Cuộc họp trong hoàn cảnh kháng chiến ngặt nghèo mà kéo dài tới 5 ngày, cuối cùng bầu ra một ban chấp hành phân hội.
Ngô Minh