Ở Việt Nam, có khoảng 20 loài thuộc chi Ngọc lan, trong số đó có khoảng 5 loài được trồng phổ biến khắp nước vì hoa thơm.
Ở Huế, có 2 loài thường được trồng ở nhiều đền thờ, chùa chiền, lăng tẩm, cung điện là Ngọc lan trắng và Ngọc lan vàng. Trong số đó, Ngọc lan trắng được trồng phổ biến hơn. Ở một số lăng tẩm các vua triều Nguyễn, nhiều cây Ngọc Lan trắng đã qua tuổi cổ thụ, một số cây do quá to cao, bị gió bão tác động gãy cành đang được chăm sóc bảo tồn. Cây ở lăng Đồng Khánh là một ví dụ điển hình. Do cây có tán rậm, hoa rất thơm, nên dân gian thường ngại trồng trong vườn nhà, vì quan niệm rằng dễ bị “ma quỉ” tọa vào, quấy rầy gia cảnh, sau này khó loại bỏ.
Ở các chùa Phật giáo, Ngọc lan được xem là loài cây xanh thích hợp vì cho bóng mát tốt, lại cho hoa thơm lan tỏa làm cho cảnh quan thêm phần trang nghiêm. Thường nó được chọn trồng ở phía tiền đình của cảnh phật. Chẳng hạn như ở chùa Bảo Quốc, ngay phía trước chính điện, có hai cây Ngọc lan trắng to lớn, xanh tươi, cao trên chục mét, tỏa rợp bóng hai bên, nhiều người viếng cảnh chùa đều trầm trồ khen ngợi.
Ngọc lan trắng cũng được trồng nhiều ở các khuôn viên công sở, chẳng hạn như ở trên trục đường Lê Lợi, chúng ta có thể bắt gặp nhiều cây ở khuôn viên Trung tâm học liệu Đại học Huế, khuôn viên Hội nhà báo, khuôn viên Chi cục Kế hoạch hóa gia đình… Ngoài ra, Ngọc lan cũng đã được trồng ở một số công viên, vườn cảnh.
Hoa ngọc lan
Ngọc lan trắng, còn được gọi là Mộc lan trắng, Sứ trắng, Bạch lan hoa, tên tiếng Anh là White Champaca, tên khoa học là Michelia alba. Cây thường xanh, cao 10 – 15 m, nhánh non có lông. Lá bầu dục thon, to khoảng 15-25 x 4-9 cm, xanh tươi, sáng màu, hơi ngã vàng. Hoa rất thơm, gồm 8-12 cánh hoa trắng thon nhọn, hơi cong, nhiều nhị vàng ngắn.
Ngọc lan vàng, còn được gọi là Ngọc lan ngà, Mộc lan vàng, Sứ vàng, tên tiếng Anh là Champaca, tên khoa học là Michelia champaca. Cây thường xanh, to cao hơn Ngọc lan trắng, có thể cao đến 35 m. Lá có phiến hình xoan hay xoan thuôn, to 10-20 x 4-9 cm, chót nhọn hay có mũi, có lông thưa ở cả 2 mặt. Hoa cũng rất thơm, màu vàng ngà đến vàng cam cam, cánh thẳng.
Người Trung Quốc dùng hoa Ngọc lan trắng sản xuất một loại dầu thơm gọi là “White champaca flower oil”. Tinh dầu Ngọc lan trắng cũng được dùng trong một loại nước hoa nổi tiếng có tên là nước hoa Joy, do vậy đôi khi người ta còn gọi tên cho cây là Joy perfume tree.
Ở nhiều nước Đông Nam Á, hoa của cả 2 loài Ngọc lan trắng và Ngọc lan vàng đều được dùng cho một số mục đích khác nhau. Có nơi dùng thả vào tô nước để trưng bày trang hoàng cho phòng cưới, nhiều nước dùng lấy hương sản xuất nước hoa và kem chải tóc. Ở nhiều vùng nông thôn Việt Nam, hoa Ngọc lan trắng thường được phụ nữ dùng cài lên mái tóc vào những dịp lễ hội.
Hoa Ngọc lan cũng thường được dùng thờ cúng trong những ngày lễ, tết, rằm, mồng một hàng tháng. Vào những ngày 14 và 30 âm lịch hàng tháng, chúng ta dễ dàng bắt gặp một vài người nách một cái rỗ nhỏ đựng những gói lá chuối xếp thành hình chiếc bánh tày hay bánh ú chứa những hoa Ngọc lan đi bán dạo ở một số đường phố. Nhiều gia đình đón mua để trưng bày trên đĩa quả phẩm thờ cúng ở bàn Phật, bàn thờ Gia Tiên hay trang Ông, trang Bà.
Trong nền y học truyền thống châu Á, nước ép hay nước sắc của hoa Ngọc lan được dùng chữa trị rối loạn tiêu hóa, nôn mửa, sốt. Hoa ngâm trong dầu dùng ngoài da trị nhức đầu, đau mắt, viêm mũi, xoang, thấp, gút, chóng mặt, viêm nhiễm và sốt. Lá dùng chữa trị các vết sưng tấy. Rễ cây Ngọc lan trắng có tác dụng thông kinh, vỏ rễ dùng hạ nhiệt, hoa trấn kinh… Ở Ấn Độ, hoa của Ngọc lan vàng được dùng điều trị ung thư vùng bụng.
Như vậy, Ngọc lan trắng và Ngọc lan vàng là 2 loài cây xanh đa tác dụng. Chọn nơi trồng thích hợp sẽ góp phần đa dạng hóa chủng loại, đồng thời tận dụng được những tính năng sẵn có của nó, vừa tôn tạo cảnh quan vừa thu được những sản phẩm phục vụ đời sống cộng đồng.
Đỗ Xuân Cẩm