Chuyện “ngày xưa” là những câu chuyện bi hài thời bao cấp, khiến người đọc “cười chảy nước mắt”. Đây là lời bình mà cũng là nỗi đau đời của tác giả sau khi chép lại những vần ca dao châm biếm “chuyện lạ” thời bao cấp, kiểu như “Bắt cởi trần phải cởi trần / cho may-ô mới được phần may-ô”; hoặc là “Gió đưa cái giá lên trời / Cho lương ở lại chịu đời đắng cay”…
Trong lời “Tựa”, tác giả tâm sự: “Tôi viết cuốn tự truyện này để nhắc lại với bạn bè, người thân… cái thời thật đáng ghét - thật đáng thương, thật đáng quên - thật đáng nhớ, giữa ngổn ngang những bi hài cay cực là những tấm lòng “sống để yêu nhau”… Tuy vậy, bìa cuốn sách lại ghi là “Ký”. Quả là cuốn sách gần như có 2 phần: Tự truyện một quãng đời của Ngô Minh và ghi chép những chuyện bi hài thời bao cấp mà tác giả đã chứng kiến hoặc nghe nhiều người kể lại. Phần “Tự truyện”, qua 4 chương “Chuyện làng tôi”, “Thời đói kém cả làng”, “Ký ức học trò”, “Thời sinh viên”, tác giả đưa người đọc về thăm làng cát Ngư Thủy có nữ đại đội pháo anh hùng nổi tiếng.
30 năm qua, chuyện bi hài thời bao đã được “tái hiện” qua nhiều loại hình (báo chí, tác phẩm văn học, phim ảnh, triển lãm) nên không còn “lạ lùng” nữa, nhưng với thế mạnh là một nhà báo xông xáo trưởng thành từ ngành “thương nghiệp xã hội chủ nghĩa”, lại quen biết với rất nhiều văn nghệ sĩ tên tuổi, nên cuốn sách của Ngô Minh là một tập hợp phong phú về những chuyện “lạ” đó. Từ chuyện xếp hàng hứng nước, mua rau, đi vệ sinh, rồi cảnh chen chúc tàu xe đến “tè” ra cả quần… “Vui” hơn là cảnh nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ngồi tỉ mẩn thu các tem gạo của hội viên từ Quảng Bình, Quảng Trị vô Huế dự đại hội văn nghệ Bình Trị Thiên, hay như chuyện nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, hồi mới ở vùng giải phóng Quảng Trị ra, xếp hàng mua bánh mì chán chê, đến lượt, cô bán hàng hỏi “tem đâu ”, nhà văn ngớ ra, rồi loay hoay đưa cái… tem gửi thư; cô bán hàng cười như nắc nẻ, bảo “không có tem, mời bố tránh mau ra cho người khác mua” và “Hoàng Phủ tỉu nghỉu lủi mất”… Bản thân tác giả thì trong một lần đi mua “tiêu chuẩn” gạo cho con mới sinh, bị bà cửa hàng trưởng hạch sách lôi thôi, chịu không nổi, đã vò xé mớ giấy giới thiệu ném vô mặt bà ta, rồi quát to: “Tôi đếch cần bà!”. Còn bà ta thì nhìn Ngô Minh “như nhìn một người từ mặt trăng tới, mặt tái mét!”…
Nói cho công bằng, là người trong “nghề”, tác giả cũng thông cảm với những khó nhọc ít ai hình dung được của nghề “thương nghiệp quốc doanh” thời đó. Như có nhân viên, bàn hàng về, tem phiếu li ti chưa kịp xếp dán lại để “cân đối” hàng hóa thì con nghịch quạt tung tóe hết, vất vả mấy cũng phải tìm gom lại cho đủ… Mặt khác, tác giả cũng tự thú có lúc “đã hăng hái tham gia vào sự điên rồ duy ý chí thời bao cấp đó một cách u mê, tự nguyện” do đã theo lệnh một giám đốc viết cuốn sách ca tụng “cây thuốc lá” phát cho cả ngàn hộ ở Thừa Thiên Huế, để rồi sau 2 năm thua lỗ, nhà máy phải đóng cửa...
Điều đáng nói thêm, cơ chế “quan liêu bao cấp duy ý chí” kỳ quái đó tưởng chỉ là chuyện “ngày xưa”, nhưng buồn thay, cái “đuôi” của nó còn vùng vẫy đến tận hôm nay. Những nhà máy thua lỗ hàng nghìn tỉ đắp chiếu vừa được “bêu dương” trên nghị trường Quốc hội, chính là hậu quả của lối làm ăn đó!
Chính vì thế mà dòng kết cuốn sách, Ngô Minh viết:“Tôi mong mỏi đất nước tôi không bao giờ trở lại chế độ quan liêu bao cấp tệ hại ấy nữa. Mong mỏi. Mong mỏi… Và mong mỏi…”. Tác giả ba lần “mong mỏi”, hẳn là muốn nói hộ nhiều người khác và cũng hiểu đây là căn bệnh không dễ chữa, do chưa triệt được căn nguyên…
Nguyễn Khắc Phê