Sình là tên Nôm của làng Lại Ân, cách Kinh thành Huế khoảng 7km về phía Đông Bắc. Đầu làng có ngôi chùa Sùng Hóa cổ xưa, cuối làng có nhà thờ và đình làng ở giữa, uy nghi bên gốc đa cổ thụ, hướng mặt ra bờ sông. Sình có thời kỳ được biết đến là làng lúa, làng hoa. Hoa vàng rực bờ sông mỗi độ xuân sang. Trong làng, những con đường đất mềm mại được ôm ấp dưới bóng những rặng tre ngà. Tôi mê mẩn ngôi làng, nhất là mỗi độ xuân về, khi có chút sương mỏng sắp tan trong ánh ngày vừa rạng.

Nhưng làng nổi tiếng không phải vì đẹp mà vì nơi đây có nghề làm tranh dân gian. Tranh Sình được giới chuyên môn đánh giá là những tác phẩm tạo hình có giá trị trong kho tàng tranh khắc gỗ dân gian Việt Nam, sánh với những làng tranh nổi tiếng như Đông Hồ (Bắc Ninh), Hàng Trống (Hà Nội).

Tranh Sình xưa được in trên giấy dó. Người làng phải vượt truông nhà Hồ, vượt phá Tam Giang ra tận Quảng Bình để mua loại giấy này. Sau Tết Nguyên đán, mồng 10, làng tổ chức hội vật linh đình để tuyển chọn các trai tráng sức vóc, lên rừng tìm cây vang, cây hòe; xuống biển mò con điệp, lấy vỏ phơi khô, đem về giã thành bột, dùng làm màu tô tranh. Những chất liệu này được trộn với bột nếp, phết lên giấy dó rồi dùng ván khắc in tranh. Tranh Sình xưa vì vậy là sự dung hội của rừng, biển, đồng lúa, mỗi tờ tranh đều phảng phất hương thơm đồng nội.

Tôi đọc đâu đó rằng: Huế là một trung tâm văn hóa sôi động; trong đó, đạo Phật và đạo Khổng đã thấm sâu, hòa nhuyễn vào truyền thống địa phương, nuôi dưỡng tư tưởng tôn giáo, triết học và đạo đức hết sức độc đáo.

Và tranh Sình là một trong những sự độc đáo đó. Người Huế xưa coi trọng việc thờ cúng, tưởng nhớ ông bà, tổ tiên nên tranh thờ phải đạt đến sự tinh tế trong từng đường nét; mộc mạc, ấm cúng trong từng mảng màu; thơm tho khi cầm trên tay. Tín ngưỡng mà ẩn chứa trong đó cả chiều sâu văn hóa thâm trầm và lịch lãm của đất kinh kỳ.

Tôi hỏi bạn, làng Sình còn giữ được nghề làm tranh? Bạn tôi la lên: “Về làng đi, xưa mi ước chi giờ thành hiện thực rồi đó”. Tôi đã ước gì nhỉ? Ba mươi năm trước, nghề làm tranh ở làng đang có nguy cơ thất truyền... À, ước một mai về lại làng thấy cô thôn nữ miệng cười chúm chím, phơi tranh trong nắng mùa xuân; ước mấy anh Tây, chị Tây ngồi in tranh cùng lũ trẻ, trong ba lô của họ, tranh Sình đi khắp năm châu; ước, tranh làng Sình trở thành một mặt hàng mỹ nghệ, xuất khẩu ra nước ngoài ”.

Giữ tranh làng Sình

Hồi đó, để hoàn thành luận văn tốt nghiệp chuyên ban Dân tộc - Khảo cổ học của Khoa Lịch sử Trường đại học Tổng hợp (nay là ĐH Khoa học Huế), tôi với chiếc xe đạp cà tàng suốt mấy tháng ròng ngày 2 buổi đi - về làng Sình và các làng lân cận để tìm tư liệu và nghe các cụ già kể chuyện. Có những đêm nghe các cụ hò giã điệp mà ngỡ ngàng, sao các cụ ngày xưa duyên và dí dỏm là thế. Cả một kho tàng văn hóa dân gian, chỉ cần khơi nguồn là tuôn chảy những giá trị độc đáo.

Bản luận văn “Tranh làng Sình” với 150 trang chép tay hoàn thành cũng là lúc tôi chia tay với làng Sình từ đó đến nay. Hỏi thêm bạn là có ai còn làm tranh Sình như hồi xưa không, là tờ tranh thơm tho có cả nhạc, cả thơ, cả hương đồng gió nội trong đó, bạn thoáng suy tư: “Giờ e không còn ai làm tờ tranh như rứa nữa, sẵn phẩm màu rồi, tờ tranh Sình rực rỡ, tươi tắn hơn, giấy in cũng đẹp hơn, tranh xưa chỉ còn là hoài niệm”.

Vâng, thì biết vậy, phải tìm sự thích ứng văn hóa mới giữ được làng tranh xưa. Còn bản khắc gỗ là vẫn còn hồn cốt của tranh Sình. Nhưng vẫn thấy tiêng tiếc tờ tranh xưa cũ.

Nói Huế bây giờ trong cảm thức của mình như tranh Sình là vậy. Cái thích ứng hôm nay làm cho Huế hiện đại và năng động, nhưng cũng có một Huế trầm tích bởi lớp lớp những giá trị được xếp ngăn nắp để khi cần là có thể tìm thấy, mở ra...

Bạn tôi ước Huế giàu. Tưởng bạn ước giàu theo kiểu “giàu sang phú quý”, ai dè bạn tôi vẫn là cô gái Huế khiêm nhu trong phủ, đệ, chỉ ước Huế giàu về thiên nhiên, văn hóa, tinh thần. Thì xưa nay thiên nhiên và văn hóa Huế vẫn giàu đó thôi, không những giàu mà còn giàu khiến người ta ngưỡng vọng.

Hiếm có nơi đâu thành phố như một khu vườn khổng lồ, rộn ràng tiếng chim, xôn xao cây lá, cỏ hoa như ở Huế. Bạn kể, mạ dặn mấy anh em mình làm cái nhà mới thì nhớ theo ông bà xưa, xây cái cổng có mái che để lỡ ai qua đường gặp mưa thì có chỗ mà trú; ăn cơm còn dư thì tìm cái nơi cao cao, dễ nhìn thấy mà rải ra, cho lũ chim về ăn, để hắn nhớ nhà mình mà trở lại. Gần gũi, hòa ái với thiên nhiên nên Huế mang lại cảm giác bình yên, ấm cúng, ai một lần đến đều mong ngày trở lại.

Rồi Huế sẽ rộng dài, cao lớn hơn trong tổng phối kiến trúc đô thị. “Di sản xanh” mà Huế mơ ước để lại cho hậu thế chắc chắn sẽ là sự dung hội của rừng, biển, ruộng đồng, dòng sông... với những mảng màu tươi vui, no ấm, đủ đầy.

Biết là chẳng thể quay về ngày cũ, tôi vẫn nhớ Huế với hương thơm đồng nội trong bức tranh xưa, vẫn mơ tranh Sình mang tâm hồn Huế đi khắp năm châu.

Bài: Trần Hồng Hiếu

Ảnh: Trương Vững