Đắn đo, suy tính mãi, cha mẹ tôi quyết định dựng lại gian bếp và khu công trình phụ tắm giặt, vệ sinh. Muốn quy hoạch cho gọn ghẽ, dự tính phải bịt miệng giếng khơi lại. Giọng mẹ nghe chiều trăn trở, rằng nhiều năm nay nông thôn mới phát triển, người làng đua nhau ly hương, tích cóp được bao nhiêu về cất nhà cửa khang trang. Nhưng mạnh ai nấy làm, vô tình làm nguồn nước ô nhiễm hết cả. Giếng khơi xưa trong mát là thế, nay đâu còn dám dùng ăn uống gì, chỉ để tắm giặt, tưới cây thôi. Tôi chợt thấy lòng trống trải, như kiểu sắp mất mát một điều gì thật thiêng liêng, thương quý.

Cách đây mươi lăm, hầu như nhà nào cũng có một cái. Đến nhà ai mà không có giếng, là thấy bất thường, lạ lẫm lắm. Nhớ chiếc gàu cao su khum tròn có miếng gỗ “làm cầu” để buộc dây thừng vào múc nước. Thỉnh thoảng gàu bị tuột dây rơi xuống giếng, cha kiếm cái thang dài, luồn chiếc đòn gánh hay đoạn cây tre qua bậc thang trên cùng rồi đặt ngang miệng giếng, rồi cẩn thận lần từng bậc một di chuyển xuống sâu. Có khi giếng sâu, chiếc thang không đủ dài, cha phải thiết kế thêm một cái gậy có cột đầu móc, lựa mãi mới móc gàu lên được.

Múc nước ở độ sâu hàng chục mét, tôi chỉ kéo được mấy gàu là đã thở dốc, hai bàn tay đỏ rát. Nước giếng khơi trong và mát lịm những ngày hè. Đi học, đi chăn trâu, đi làm cỏ lúa, bụm tay vục nước lên mặt, mệt nhọc như vơi đi mấy phần. Sáng mùa đông rét buốt, kéo gàu nước từ giếng lên, thấy làn hơi như khói mỏng bảng lảng bay, chạm tay vào thấy ấm. Nước ở giếng khơi kỳ diệu như vậy.

Có giếng khơi là sẽ có giàn rau trái phủ xanh quanh năm. Mùa nào thức ấy, mẹ ươm đủ loại dây leo, nào bầu, bí, mướp, su su, đậu ván... Dưới giàn cây xanh mướt, nhịp sống thường ngày bên thềm giếng cũng thung dung, nhẹ nhõm hơn. Chẳng biết gì về mạch, nguồn nước, nhưng tôi cảm nhận, dường như mỗi chiếc giếng đều có thân phận riêng. Có giếng nước trong và ngọt, hãm chè xanh rất thơm và đẹp nước, nấu cơm thì đậm vị. Nhưng có giếng nước lại lờ lợ, khó lòng mà ăn uống.

Làng quê trở mình thay da đổi thịt từng ngày, người ta có điều kiện sắm sanh nhiều tiện nghi phục vụ đời sống, thu vén mọi thứ sao cho thật gọn ghẽ, sạch đẹp. Nhưng hệ lụy là mạch nước ngầm của hàng trăm, hàng ngàn chiếc giếng khơi làng quê đã dần trở nên vấy bẩn. Vì sợ ô nhiễm và bệnh tật, nên nhà thì lấp, nhà thì bịt miệng để cải tổ không gian sống giống nhà tôi, chẳng mấy ai còn dám ăn uống bằng nước giếng nữa. Bây giờ tới nhà ai cũng thấy bể chứa nước mưa, nhiều nhà bể to thì trữ dùng ăn uống được cả năm. Người ta làm vậy vì niềm tin cảm tính, nước mưa của trời là sạch. Cùng với đó, nước máy sạch đã về tận làng, đường ống bắt đến từng nhà, khiến những chiếc giếng khơi cứ ngày một hao hụt dần.

Nghĩ về giếng khơi cho nguồn nước ngọt lành qua năm tháng, một ngày nào đó rồi sẽ chỉ còn trong hoài niệm, lòng dâng nỗi bâng khuâng nhớ tiếc. Có lẽ, những chiếc giếng đã hoàn thành sứ mệnh thời đại của nó, nhưng liệu rằng khi buộc phải trôi vào ký ức, giếng có biết buồn?

MAI ĐÌNH