Bạn đừng ngạc nhiên, hoặc cũng đừng cho là mình bị làm phiền, khi nhân viên ngân hàng liên tục gọi, hoặc nhắn tin liên tục vào điện thoại của bạn, về việc có nguồn tiền sắp đến kỳ tái tục hay có thêm nguồn tiền nhàn rỗi nào để gửi vào ngân hàng của họ. Lãi suất đang tăng. Câu này được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Nó có thể làm bạn sốt ruột, nhưng hệ thống ngân hàng thương mại hiện còn sốt ruột hơn bạn rất nhiều.

Thực ra, đang có rất nhiều cách sốt ruột khác nhau. Người tiếc rẻ vì ngâm vốn trong đất đai. Người đang gồng mình gánh áp lực vì khoản vay đầu tư mua một hay vài mảnh đất. Người áp lực vì khoản đầu tư vào kinh doanh dịch vụ, sản xuất… từ nguồn vốn ngân hàng. Lại có người phải dừng mọi kế hoạch vì không thể chống chịu nổi trước dòng tiền đang trở nên quá nặng vì tỷ trọng lãi suất. Bạn tôi kể, người quen của anh đã dừng việc xây nhà dù đã xong phần móng, gom hết các khoản tiền để gửi vào ngân hàng, tranh thủ khi lãi suất đang tăng.

Chịu nóng nhất hiện nay là khu vực doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh. Theo TS. Lê Xuân Nghĩa, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, các doanh nghiệp đang trong tình trạng thiếu thanh khoản và biểu hiện của nó là chiếm dụng vốn lẫn nhau ở con số lên tới hàng trăm ngàn tỷ đồng. Cũng theo ông, chỉ riêng 6 tập đoàn lớn, số vốn chiếm dụng lẫn nhau này đã ở con số 200.000 tỷ đồng. Phần lớn trong số đó có nguồn gốc từ ngân hàng.

Chúng ta cũng có thể nhận thấy những chi phối khác vào dòng tiền khi thị trường trái phiếu doanh nghiệp đình trệ, trái phiếu bất động sản suy giảm, thậm chí lao dốc. Điều này dẫn đến khan hiếm thanh khoản, mặc dù nhu cầu tín dụng của nền kinh tế đang rất lớn. Đó cũng là lý do mà các ngân hàng thương mại tăng lãi suất huy động và đẩy tăng lãi suất cho vay.

Ở một góc nhìn khác, theo TS. Lê Xuân Nghĩa, nếu tính từ đầu năm đến tháng 10 vừa qua, tăng trưởng GDP của cả nước vào khoảng 8%, lạm phát khoảng 3%. Như vậy tính theo tỷ giá hiện hành, GDP tăng 11%. Trong khi đó, cung tiền chỉ tăng được 3%. Đặt một sự so sánh về lãi suất Ngân hàng châu Âu kỳ hạn 1 năm là 3%; ở Mỹ vào khoảng 2,5%-3% trong khi lạm phát 10% và (trong khoảng) 8,5%-9% (theo thứ tự), vấn đề mà TS. Lê Xuân Nghĩa đặt ra là, các doanh nghiệp trong nước đang kinh doanh trong điều kiện lãi suất so với lạm phát cao nhất thế giới, khi lãi suất cho vay kỳ hạn của chúng ta đang vào khoảng 9%, lạm phát 3%. Lãi suất thực là 6%. Gấp đôi lạm phát. Có một số trường hợp gấp từ 2,5 đến 3 lần lạm phát.

Tương quan của các con số cho thấy, tỷ lệ lạm phát của Việt Nam thuộc nhóm thấp nhất, nhưng lãi suất tiền gửi và cho vay lại đứng ở top cao nhất thế giới. Doanh nghiệp có lẽ đang “ngộp thở” và đang đi tới đỉnh điểm của giới hạn chống chịu?

Có rất nhiều thuật ngữ, cũng như vấn đề mà để giải thích một cách sâu sắc vấn đề này, cần đến tiếng nói và sự chia sẻ của các chuyên gia kinh tế. Điều chúng ta dễ nhận thấy nhất không phải là ngày càng có nhiều cuộc gọi, tin nhắn về lãi suất để thu hút nguồn tiền mà ở chỗ, chúng ta ngày càng tiếp nhận nhiều thông tin hơn về khan hiếm nguồn nguyên liệu, khan hiếm đơn hàng. Là số công nhân không còn việc hoặc thất nghiệp đang có chiều hướng tăng lên. Là sự tiết giảm các khoản chi để ứng phó với sự gia tăng về vật giá. Ngay cả chúng ta nữa, cũng tự tiết chế thanh khoản.

 Nhìn ở cấp độ vĩ mô, khan hiếm thanh khoản rõ ràng đang tác động không tốt đến nền kinh tế và mục tiêu tăng trưởng.

MINH HÀ