Nguyên Bí thư Thành ủy Huế Nguyễn Văn Quang và người thân viếng mộ Đại đội trưởng Đặc công Nguyễn Thanh Hiếu (Nguyễn Văn Chiến) |
Đó là vào mùa đông của năm 1967, khi ấy tôi 19 tuổi được Thành ủy Huế cử đi học chính trị - quân sự cấp tốc tại Khe Trái - Hương Trà do Ban Chỉ huy cánh Bắc Mặt trận Huế tổ chức - ông Nguyễn Văn Quang mở đầu câu chuyện.
Vì là đảng viên trẻ, lại là cán bộ dân chính tham dự lớp học nên tôi được các anh yêu mến. Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ tên các học viên, đó là các anh: Nguyễn Thanh Hiếu, Đại đội trưởng Đặc công; Lê Thanh Tùng, Đại đội trưởng Trinh sát; anh Lam, anh Lựu và anh Trì, Đại đội trưởng Bộ binh; anh Sở, Đại đội phó Trinh sát.
Lớp học tuy chỉ có 8 học viên nhưng lại có đến 5 giảng viên, chính trị do các anh ở Ban Tuyên huấn khu ủy Trị Thiên như: Trần Hoàn, Hồ Như Ý, Nguyễn Lê lên lớp; quân sự do anh ở Trung đoàn 6 như: Trần Chí Thành, anh Tam đảm nhận.
Hôm ấy tôi đến muộn, chính anh Nguyễn Thanh Hiếu đón và hỏi tôi:
- Em ở đơn vị nào, sao ăn mặc không giống ai vậy?
Tôi từ tốn đáp:
- Em ở Thành ủy từ đồng bằng Quảng Điền lên.
Do được triệu tập đi học đột xuất nên tôi không kịp mang theo các vật dụng cần thiết, trừ cây AK và hai bộ quần áo.
Có lẽ vì thương tôi nên đêm đó chính anh Nguyễn Thanh Hiếu đã treo và nhường võng của mình cho tôi nằm.
Hai chúng tôi trở thành anh em kết nghĩa từ đó.
Để chuẩn bị cho cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Xuân 1968, chúng tôi được giảng viên truyền đạt về đường lối cách mạng miền Nam, về tấn công và nổi dậy, nổi dậy để tấn công, về khởi nghĩa từng phần đến tổng công kích…
Là những người đều “trải qua trận mạc” nên chúng tôi thảo luận sôi nổi. Khi lên sơ đồ tác chiến về những phương án giả định, tôi nhiệt tình tham gia và được các anh khuyến khích nói rõ đặc điểm địa hình cũng như quy luật hoạt động của đối phương ở thành phố. Xin nói rõ, do giữ bí mật tuyệt đối nên chúng tôi không một ai biết thời gian cũng như mục tiêu cụ thể.
Thấy chúng tôi luôn bổ sung ý kiến cho nhau, anh em nhận xét vui: “bộ đôi Hiếu - Quang, một đen và già dặn trận mạc, chỉ huy giỏi, một trắng trẻo, thư sinh, mưu trí, thông thuộc ngõ ngách. Nếu kết hợp, quả là hoàn hảo!”.
Kết thúc lớp học, tôi được Chính ủy cánh Bắc Trần Anh Liên giao nhiệm vụ vào nội thành, chỉ huy Biệt động hoạt động hợp pháp ở đây đánh chiếm một điểm quan trọng. Còn anh Nguyễn Thanh Hiếu chỉ huy đơn vị tấn công từ ngoài vào (đơn vị anh Lê Thanh Tùng dự bị). Tôi và Hiếu thay mặt lớp học thề trước Đảng sẵn sàng hy sinh để hoàn thành nhiệm vụ đặc biệt được giao!
Khi đang ở Quảng Điền chuẩn bị, bất ngờ tôi nhận được lệnh lên chiến khu nhận nhiệm vụ khác. Đó là dẫn quân từ ngoài vào, còn anh Nguyễn Thanh Hiếu được phái vào nội thành nhận nhiệm vụ mới.
Trước khi chia tay, anh nói: “Mình tham gia nhiều trận, trận nào cũng vào trước ra sau may mà còn sống, chắc trận này mình vào Huế chiến đấu cùng Quang rồi!”.
Về Quảng Điền, anh Nguyễn Thanh Hiếu được đồng chí Nguyễn Trung Chính bố trí gặp nữ đảng viên mật Đặng Thị Chề. Hai người đóng vai vợ chồng và ngày 29 tết anh Hiếu theo chị Chề đến Hãng đồ gỗ của đảng viên mật Lê Hữu Trí gặp anh Võ Phước Toàn - Quận ủy viên Quận 2 hoạt động hợp pháp và trú tại đây. Dù an toàn nhưng tôi vẫn rất lo vì anh Hiếu không chỉ có nước da ngăm đen mà còn xâu lỗ tai, trong khi ở Huế cảnh sát, mật vụ dày đặc.
Tại đây, dưới sự chỉ đạo của đồng chí Phan Nam, anh Nguyễn Thanh Hiếu được giao phối hợp với anh Võ Phước Toàn có nhiệm vụ mở cửa Chánh Tây.
Để thực thi nhiệm vụ trọng yếu này, anh Hiếu được anh Toàn đưa đến nhà bà Võ Thị Thôi, một cơ sở hợp pháp nhà ở đường Thái Phiên - Tây Lộc để nhận vũ khí và chất nổ mà ông Nguyễn Trung Chính phối hợp với ông Phan Nam tổ chức đưa vào trước đó.
Còn tôi, được Chính ủy cánh Bắc Huế Trần Anh Liên giao nhiệm vụ dẫn Trung đoàn 6 áp sát, đợi cửa Chánh Tây mở cửa dẫn quân tiến đánh các mục tiêu đã định.
Rạng sáng mồng 2 Tết Mậu Thân, đúng giờ quy định, một tiếng nổ lớn vang lên. Nó như tiếng lên pháo lệnh thôi thúc cánh quân phía Bắc xông vào nội thành sau khi các lớp hàng rào kẽm gai ở cửa Chánh Tây bị sức công phá của hợp chất C4 thổi tung.
Từ bên ngoài, nhìn lên thượng thành tôi thấy tín hiệu của ánh đèn pin và nghe tiếng gọi rõ to: “Hiếu đây, Quang ơi!”. Tôi sung sướng đáp lại: "Quang đây, anh Hiếu ơi” và hô “Xung phong!".
Dưới chân cửa Chánh Tây hai anh em chúng tôi vui mừng ôm lấy nhau và vì việc quân đang giục nên vội vàng chia tay.
Tôi dẫn một Đại đội của Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 6) tấn công sân bay Tây Lộc, đồn Quân Cụ. Anh Nguyễn Thanh Hiếu dẫn 2 Đại đội của Trung đoàn 6 và Đội Biệt động thành phố đánh chiếm Đại Nội, các cửa nhà Đồ, cửa Ngăn, cửa Thượng Tứ và phát triển ra vùng Đông Ba - Gia Hội.
Sáng mồng 2 Tết Mậu Thân, lá cờ Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hòa bình Việt Nam lên Kỳ đài Huế (lá cờ này do bà Lê Thị Mai - chị ông Lê Quang Vịnh may rộng 8m x 12m).
Trong những ngày làm chủ thành phố, tôi được phân công làm Đội trưởng chính trị vũ trang Quận 1, còn anh Nguyễn Thanh Hiếu hoạt động ở Quận 2. Tại vùng Đông Ba - Gia Hội, anh tham gia tổ chức huấn luyện tự vệ và sau đó đánh phản kích, đặc biệt là bắn tàu chiến Mỹ xâm nhập từ hướng Thuận An lên.
Sau 26 ngày đêm làm chủ thành phố Huế, từ Thành nội, tôi dẫn một cánh quân bí mật rút về Quảng Điền; còn anh Nguyễn Thanh Hiếu rút về Phú Vang.
Tôi xa anh từ đó!
(còn nữa)
Bài 2: Để lại quê hương dáng hình “tạc vào thế kỷ”