Sử cũ chép lại, cha con Đặng Tất và Đặng Dung, những tên tuổi lẫy lừng trong cuộc chiến kháng Minh thời Hậu Trần quê tận Hà Tĩnh. Thế nhưng, như có thoáng nghi ngờ lại ghi chú thêm rằng, tổ tiên của các ông đã di cư vào Hóa Châu, không rõ thời điểm nào. Để rồi sau đó, gần đây các sử gia đã có chứng cứ để khẳng định làng Bác Vọng bên sông Bồ này là quê hương của họ. Trong nhiều tài liệu lịch sử, Đặng Tất được xem là “người bản thổ” của Hóa Châu - Bác Vọng, nghĩa là ở địa phương nhiều đời. Đặng Tất đã được nhà Hồ cử làm tri huyện Hóa Châu xưa. Khi giặc Minh xâm lược Đại Việt, lập chính quyền đô hộ (1407), Trương Phụ vẫn cho ông làm đại tri châu như cũ. Vậy nhưng, con người nồng nàn yêu nước này đã không cam chịu. Hay tin Trần Ngỗi, có dòng dõi tôn thất nhà Trần phất cờ khởi nghĩa, cha con Đặng Tất - Đặng Dung đã giết hết bọn quan lại Minh ở Hóa Châu, rồi kéo quân ra Nghệ An tìm theo, được phong quốc công và gả công chúa cho. Cuộc đời chiến binh của cha họ Đặng vẻ vang nhưng đáng buồn thay, cũng đầy bi kịch. Đặng Tất chết bởi chủ tướng là Trần Ngỗi sợ mất quyền bính và nghe lời gièm pha của kẻ xấu. Còn Đặng Dung ra đi khi cuộc khởi nghĩa của vua tôi Hậu Trần lâm vào lối cụt và để lại cho muôn đời sau bài thơ “Thuật hoài” nổi tiếng với những vần thơ như xé lòng “Thù nước chưa xong đầu đã bạc/ mài gươm mấy độ bóng trăng cao”. Tôi nghĩ, trong hành trang vào đời của biết bao thế hệ người Việt đã mang theo và canh cánh trong lòng câu thơ xưa của Đặng Dung, như một một lẽ sống, niềm khát khao và hy vọng cống hiến.
Miếu Bà Tơ |
Lịch sử như một sự lặp lại khi chừng 500 năm sau đó với sự xuất hiện của một cặp cha con họ Đặng khác là Đặng Huy Cát và Đặng Hữu Phổ. Lần này bối cảnh lịch sử đổi thay với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, nhưng cũng lại gắn liền với tên làng Bác Vọng. Tháng 7 năm 1885, kinh đô Huế thất thủ. Chính Đặng Huy Cát và Đặng Hữu Phổ là những người đầu tiên trong cả nước hưởng ứng chiếu Cần Vương do vua Hàm Nghi phát động. Cuộc khởi binh không thành, kéo theo cái chết bất tử của Đặng Hữu Phổ. Chuyện kể rằng, sau khi lãnh án tử hình, thực dân Pháp và Nam triều đã áp giải về quê và tổ chức đem xử bắn ông một địa điểm gần bến đò Quai Vạc bên sông Bồ, thuộc làng Bác Vọng. Tương truyền, lúc thụ hình, Đặng Hữu Phổ vẫn trong tư thế đĩnh đạc, hiên ngang khiến cho đao phủ thủ run tay và phải chém đến ba lần thì đầu mới lìa khỏi cổ. Còn nữa, cảm phục khi nhìn thấy cái chết bi tráng của chủ tướng, hai người lính theo hầu cũng đã hộc máu chết theo. Đọc lại bài thơ “Lâm hình thời tác” của Đặng Hữu Phổ để lại trước lúc đem thân đền nợ nước, thấy phảng phất tâm sự và khí phách của Đặng Dung trong “Thuật hoài” năm xưa. Ngày Đặng Hữu Phổ ra pháp trường là 29/8/1885. Quê của cha con Đặng Hữu Phổ nằm bên kia con sông Bồ, đó là làng Thanh Lương, xã Hương Xuân, huyện Hương Trà. Đặng Huy Cát đã nhập tịch làng Bác Vọng sau khi lấy công chúa Tĩnh Hòa, trở thành Phò mã đô úy. Lần đầu tiên đến thăm miếu thờ Đặng Hữu Phổ, còn gọi là “Thị độc miếu” (miếu của quan Thị độc học sĩ Hàm lâm viện), nằm cách không xa bến đò Quai Vạc và khu lăng mộ của mẹ con ông ở xứ Cồn Căng, cách đó không xa, trong một buổi chiều đông tầm tã mưa rơi, tôi đã bật khóc, chợt như hiện về trong tôi dáng hình kẻ anh hùng lỡ vận và câu thơ ngày nào ông viết “Chính khí nay về cùng đất nước/ Hồn thiêng theo mãi với vua, cha”.