Năm 1964, tôi vừa đôi mươi đã từ giã gia đình, vùng quê giàu truyền thống cách mạng Phú Hồ (Phú Vang) lên rừng tham gia kháng chiến. Nhờ thể hình cao lớn, nhanh nhẹn, hoạt bát nên tôi được chỉ huy cho đi học lớp trinh sát. Sau khi học xong, trở lại chiến trường chiến đấu tôi được kết nạp Đảng vào năm 1966. Đến tháng 9 năm 1968, trong một trận chiến đấu không cân sức giữa bộ đội ta và quân địch ở địa bàn huyện Phú Vang, tôi bị thương nặng và bị địch bắt tại xã Vinh Thanh (Phú Vang). Không khai thác được thông tin, bọn địch đưa tôi ra giam ở nhà tù Phú Quốc và đến tháng 3/1973, tôi mới được trao trả ở sông Thạch Hãn. Điều dưỡng ở miền Bắc chưa đầy một năm tôi xung phong trở lại miền Nam chiến đấu và được điều vào Quân khu Trị Thiên, bổ sung về Huyện đội Phú Vang. Năm 1975, khi chuẩn bị giải phóng Huế, tôi khi đó là Chính trị viên C2 (Đại đội 2 bộ đội địa phương) được điều động về làm Huyện đội phó Huyện đội Phú Vang và nhận trách nhiệm dẫn một đoàn quân về giải phóng các xã Phú Thượng, Phú Dương, Phú Thanh, Phú Mỹ và ngăn không cho quân địch từ Huế tháo chạy về biển. Sau khi nhận nhiệm vụ, tôi dẫn đầu một đoàn quân khoảng 60 người từ căn cứ nhắm hướng đồng bằng thẳng tiến. Do không bắt được liên lạc với giao liên, toán của tôi khi về tới Thủy Thanh (Hương Thủy) chạm trán với lính dù đang phục kích ở đó. Trong trận đánh này, bên ta tổn thất khá nhiều. Tôi cũng bị thương vào chân, nhưng nhờ thông thạo địa bàn nên chạy thoát. Trước khi đi, tôi được cấp trên giao cho một ba lô đựng tiền, vàng dùng làm kinh phí hoạt động cho đoàn. Khi trốn chạy, sợ ba lô rơi vào tay địch, tôi đã treo ba lô lên trên ngọn cây. May là bọn địch ham đuổi theo tôi nên không phát hiện ra nơi cất giấu ba lô. Khi tình hình yên ắng, tôi trở lại lấy ba lô về giao cho Ban quân quản. Tiền, vàng trong ba lô không mất một xu nào. Sau gần ba ngày ẩn nấp tại cơ sở của ta ở xã Phú Hồ, tôi đã bắt được liên lạc với bộ đội chủ lực từ trên rừng về và cùng mọi người dũng cảm chiến đấu quét sạch quân địch, giải phóng huyện Phú Vang. Trong khi đang chiến đấu, nghe thông tin Huế được giải phóng, cảm xúc trong tôi lúc đó thật khó tả, vừa sung sướng, vừa nghẹn ngào khi nghĩ đến đồng chí, đồng đội đã hy sinh cho đất nước. Tôi nhớ đến người em trai của mình (liệt sĩ Dương Đức Thịnh – PV) hy sinh năm 1971 và bị địch phơi xác ngay tại cống Phát Lát tới 3 ngày; nhớ đến 60 bạn bè ở quê nhập ngũ cùng ngày với tôi giờ không biết ai còn ai mất và nhớ đến những đồng chí, đồng đội đã ngã xuống trên khắp chiến trường.
Giải phóng xong, tôi được cử làm Phó Ban quân quản, có nhiệm vụ tổ chức cho ngụy quân, ngụy quyền học tập các chính sách của cách mạng, tiến hành tháo gỡ bom mìn... rồi sau đó làm Huyện đội phó Huyện đội Phú Vang cho đến lúc nghỉ mất sức. So với những đồng chí, đồng đội đã hy sinh cho quê hương đất nước, tôi thấy mình còn sống được như thế này là quá hạnh phúc. Hy vọng thế hệ hôm nay và mai sau hãy phát huy tốt hơn nữa truyền thống hào hùng của cha anh đi trước.
Hào Vũ (ghi)