Quán chị thường mở cửa sớm. Cũng chẳng có gì nhiều nhặn và gần như chỉ dành cho mấy người khách quen thường ghé uống cà phê sáng. Mùa hè, cỡ chừng gần 5 giờ đã thấy chị đặt ra ngoài lề đường mấy chiếc bàn, ghế nhựa và lom thom chuẩn bị trà, đá sau khi quét qua khoảng sân nhỏ. Có hôm vì khó ngủ và chắc có phần nhạt miệng, chồng tôi ra quán sớm, gọi chị ới ời rồi tự bưng bàn, bưng ghế. Rỗi được một lúc, chị ghé xuống ngồi với dăm ba câu chuyện phiếm.

Ngày gia đình tôi lên xây nhà ở trong ngõ, đã thấy dáng chị tần tảo lúc thúc trong ngôi nhà cũ và dăm ba món hàng trong kiot đầu ngõ, dù không nhiều nhặn các mặt hàng tạp hóa nhưng cũng có thể đáp ứng đủ những thứ người ta cần. Sau một thời gian thì có thể định vị được món hàng chạy nhất của chị là bia chai. Lúc đó trong ngõ có đến 4-5 ngôi nhà đang được xây. Cuối tuần người ta hay gọi bia đãi thợ. Cánh phụ nữ thì luôn nhớ đến chị khi nhà cón món gì ngon và dành lại những thứ chị có để mua.

Ngày đó thi thoảng chuyện trò, tôi mới hay chồng chị mất chưa được bao lâu, để lại cho chị hai đứa con đang học trung học cơ sở và ngôi nhà đã rệu rã. Người phụ nữ chỉ biết gia đình buộc phải gồng mình xoay xở. Tôi nhớ chị bảo, điều khó nhất là đi đâu làm gì cũng thấy bóng dáng của chồng. Phải mất một thời gian rất lâu chị mới có thể bình tâm trở lại để lo cho con. Chúng đều đang trong tuổi lớn và đôi khi còn mải chơi. May mắn là chúng cơ bản ngoan, biết bảo ban nhau giúp đỡ mẹ và chăm học. Ba mẹ con chị cứ thế mà nương tựa vào nhau để vượt qua biến cố lớn của gia đình.

Giờ thì hai cậu con trai đều đã đứng chân ở hai đơn vị khác nhau. Chị cũng đã có con dâu. Nhà cũ đã được thay bằng ngôi nhà hai tầng bề thế và rộng rãi từ nguồn tiền tích góp của chị và phần đóng góp của các con. Chị đã qua thời kỳ khó khăn nhưng cả trong những lúc bận rộn với mấy đứa cháu nội, chị vẫn nhận làm thêm việc của xóm mà không nề hà. Có vẻ như chị luôn muốn lấp đầy mọi thứ. Ngay cả việc vẫn lom thom bán cà phê sáng có vẻ như cũng chỉ là để luôn được trò chuyện, kết nối với khách quen. Tôi nhận ra điều đó khi chị bảo, sẽ cảm thấy mình thừa ra nếu không bắt đầu bằng một việc gì đó…

Cũng không nhớ là đã bao lâu nữa, chị luôn dành một chỗ ngồi cho một bác già, dù ông không uống cà phê mà chỉ ngồi để nhìn mọi người qua lại. Khách nơi quán chị cũng đã quen với điều đó và không hề thấy ai giành chỗ, dù hôm nào đó bác già mệt hay đau ốm không trở ra được. Mọi người còn thấy thiếu và thăm hỏi nếu chỗ đó lâu không thấy người ngồi.

Chỉ nhiêu đó thôi mà tôi thấy thật xóm mình thật ấm.

Lê Nguyễn