Vịnh Maya ở Thái Lan buộc phải đóng cửa để phục hồi hệ sinh thái sau những tác động tiêu cực do tình trạng khách du lịch quá tải. Ảnh minh họa: CNN/TTXVN

Trước khi đại dịch khiến hầu hết các chuyến du lịch quốc tế phải dừng lại; mỗi năm, hàng triệu người đổ xô đến những bãi biển, những ngôi chùa cổ,... ở khu vực Đông Nam Á. Hồi năm ngoái, 133 triệu khách du lịch đã đến khu vực này.

Ở một số điểm du lịch, các đám đông du khách lớn đến mức khiến người dân địa phương, các nhà môi trường và thậm chí cả các Chính phủ phải lên tiếng rằng, tình trạng tắc nghẽn hoặc quá tải từ lượng khách du lịch quá mức đang đẩy các hệ sinh thái mỏng manh của khu vực đến bờ vực bị phá hoại.

Sau đó, đại dịch COVID-19 bùng phát trên toàn cầu, các quốc gia thực hiện biện pháp phong tỏa, du lịch quốc tế sụt giảm đáng kể. Đối với những quốc gia như Campuchia, nơi du lịch đóng góp ước tính 30% GDP, tác động của đại dịch lên nền kinh tế ở mức nghiêm trọng. Trong khi đó, Hiệp hội Du lịch châu Á-Thái Bình Dương (PATA) ước tính, khu vực châu Á-Thái Bình Dương tổn thất 34,6 tỷ USD do đại dịch.

Có thể thấy, một ví dụ điển hình là Philippines, một trong những điểm đến phổ biến nhất ở Đông Nam Á, nơi đón hàng triệu khách du lịch mỗi năm. Năm 2018, rất nhiều du khách đã đến đảo Boracay, và Tổng thống Philippines Roderigo Duterte sau đó đã ra lệnh đóng cửa trong 6 tháng để thực hiện chiến dịch dọn sạch hàng loạt ở khu vực này.

Sau khi ngừng hoạt động trong nhiều tháng, hòn đảo đã mở cửa trở lại vào tháng 10/2018 với giới hạn mới về số lượng du khách từ 19.000 người xuống còn 6.000 người, đồng thời cấm hút thuốc và đồ uống có cồn trên bãi biển. Các khách sạn hiện phải được công nhận và tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường.

Ông John Paolo R. Rivera, Phó Giám đốc Trung tâm Du lịch Dr. Andrew L. Tan nhận định, sự bùng nổ về du lịch đã khiến các nhà khai thác ưu tiên lợi nhuận ngắn hạn hơn tính bền vững. Khi số lượng du khách tăng lên, các công trình bất hợp pháp được xây dựng gần bãi biển, nhiều công trình có ống nước thải dẫn thẳng ra biển.

Bên cạnh đó, một trong những bãi biển nổi tiếng nhất của Thái Lan, vịnh Maya đã đóng cửa kể từ tháng 6/2018 để phục hồi khu vực biển, và chưa có khả năng mở cửa trở lại cho đến ít nhất là tháng 6/2021. Một hệ thống bán vé điện tử đang được phát triển để kiểm soát số lượng khách du lịch khi địa điểm này mở lại.

Giảm bớt đám đông

Việc bán vé và giới hạn lượng khách từ lâu đã là một cách để kiểm soát số lượng khách du lịch ở nhiều địa điểm trên thế giới. Nhưng mức độ cơ sở hạ tầng cần thiết vẫn chưa được thực hiện tại một số điểm đến đẹp nhất ở châu Á.

Ông Willem Niemeijer, người sáng lập Nhóm Du lịch Bền vững YAANA Ventures có trụ sở tại Bangkok (Thái Lan) cho biết, một cách xoay quanh điều này là sử dụng công nghệ để quản lý các con số. Đặt chỗ trên một ứng dụng hoặc trang web trước khi du lịch có thể giúp giới hạn số lượng đám đông tại một địa điểm.

Công nghệ đang giúp giảm lượng khách tại các địa điểm phổ biến ở châu Âu. Các phòng trưng bày và bảo tàng ở những thành phố lớn như Paris, Florence hay Barcelona đang áp dụng phương pháp kiểm soát đám đông nhằm hạn chế số lượng khách. Các phương pháp tương tự có thể được sử dụng cho những địa điểm du lịch tự nhiên trên khắp châu Á, nơi trước đây chưa bao giờ cần phải được bảo vệ khỏi những đám đông lớn.

Chuẩn bị cho sự phục hồi

Trong bối cảnh đại dịch vẫn đang hoành hành ở nhiều khu vực trên thế giới, có những ẩn số lớn về việc khi nào du lịch quốc tế sẽ tăng trưởng trở lại, hoặc sẽ như thế nào khi điều đó xảy ra.

Bà Susanne Becken, Giám đốc Viện Du lịch Griffith tại Melbourne (Australia) nói rằng, bây giờ là lúc để các quốc gia suy nghĩ lại về việc họ muốn chào đón trở lại khách du lịch chỉ đến trong vài ngày và không tiêu nhiều tiền, hay phân tích chính xác những gì họ muốn từ du lịch.

Trong khi đó, ông John Paolo R. Rivera cho hay, đại dịch sẽ thúc đẩy sự chuyển đổi trong các mô hình kinh doanh theo hướng du lịch bền vững. Ở Bali (Indonesia), các quan chức đã đề xuất mức thuế 10 USD đối với khách du lịch nước ngoài, và hy vọng mức thuế sẽ được áp dụng trong năm nay. Số tiền này sẽ được sử dụng để tài trợ cho các chương trình bảo vệ môi trường và văn hóa.

Những nỗ lực này phải bao gồm quyền sở hữu và sự tham gia của cộng đồng để người dân địa phương có thể thấy giá trị lâu dài trong việc bảo vệ các địa điểm được quốc tế quan tâm, đồng thời có tiếng nói về cách mọi việc được quản lý và hưởng một phần lợi nhuận hợp lý.

Điều đó sẽ đòi hỏi đầu tư nhiều hơn vào giáo dục và đào tạo, một triển vọng khó khăn trong thời kỳ suy thoái kinh tế, nhưng cuối cùng sẽ đem lại kết quả. Việc cắt giảm số lượng khách chỉ nên xảy ra nếu được kết hợp với các chương trình bảo vệ sinh kế của người dân, bà Susanne Becken nói thêm.

Trước đó vào đầu tháng này, Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO) đã công bố một sáng kiến ​​mới kêu gọi phục hồi có trách nhiệm từ COVID-19 đối với ngành du lịch. “Sự bền vững phải là chuẩn mực mới cho mọi phần trong lĩnh vực du lịch. Nổi lên từ COVID-19 sẽ trở thành một bước ngoặt cho sự bền vững”, Tổng Thư ký UNWTO, ông Zurab Pololikashvili lưu ý.

LÊ THẢO (Lược dịch từ CNN)