Từ phải qua: Tác giả và ông Hoàng Lam, Phan Viết Kiên - du kích xã Dinh Lộc trước 1975. (Ảnh chụp 2017)
Trên chiến trường phía Nam Thừa Thiên, chúng củng cố các trận địa pháo ở các cao điểm Phú Gia, Phước Tượng, Mũi Né, cùng với những tiểu đoàn lính địa phương quân thuộc tiểu khu Thừa Thiên.
Ở mỗi xã, địch bố trí một trung đội lính nghĩa quân, một tiểu đội lính Mỹ Cát (mũ nồi xanh). Ngoài ra, lực lượng cơ động có Trung đoàn 54 thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh đóng ở La Sơn cùng với lực lượng thiện chiến của Sư đoàn Không vận số 1 (kỵ binh bay) của Mỹ đóng ở căn cứ Phú Bài.
Với lực lượng dày đặc của Mỹ ngụy như vậy, buộc lực lượng của ta ở địa bàn này phải tinh, gọn, đảm bảo 4 yêu cầu khắt khe của cuộc chiến: Tư tưởng vững vàng; xây dựng được cơ sở trong dân; đánh được địch (ở mức tương quan lực lượng); tự túc được lương thực trong điều kiện chi viện từ miền Bắc rất khó khăn do đường mòn Hồ Chí Minh chưa mở rộng. Ngay cả vũ khí ta cũng phải cử người lên tận tuyến Thống Nhất B trên đất Lào để nhận.
Tổ trinh sát an ninh vũ trang huyện Phú Lộc có 6 đồng chí đóng quân ở Khe Quýt phía Nam chân núi Bạch Mã, cách chợ Cầu Hai 3km đường chim bay. Vào một đêm tháng 7/1970, Tổ trinh sát nhận nhiệm vụ về Bãi Quả-một làng quê ven đầm Cầu Hai, nằm cách đều 1 km giữa hai căn cứ Mũi Né và quận lỵ Phú Lộc của địch.Lực lượng đi về Bãi Quả có 11 đồng chí: 4 cán bộ của Tổ trinh sát an ninh huyện, 3 du kích xã Dinh Lộc (thị trấn Phú Lộc) và 4 cán bộ biệt động huyện, chia làm 2 thê đội. Thê đội 1 tôi là người đi đầu.
Nhận nhiệm vụ dẫn đầu về Bãi Quả đêm hôm đó, từ 2 giờ chiều, tôi cầm ống nhòm ra đài quan sát nhìn về Bãi Quả thì thấy toàn một màu áo lính đi lại dày đặc. Thấy hiện tượng trên, tôi báo cáo với lãnh đạo, nhưng lãnh đạo vẫn quyết về Bãi Quả.
17 giờ 30, đoàn rời cửa rừng. 21 giờ đến Cồn Mồ (Bệnh viện huyện Phú Lộc ngày nay), đoàn tập trung để thống nhất phương án vượt đường quốc lộ, tiếp cận đường sắt. Khi thê đội 2 ổn định ở đường sắt, tôi dẫn thê đội 1 đi giữa ruộng lúa ra đầm Cầu Hai rồi bọc lại vào làng. Từ dưới ruộng, tôi vừa đặt chân lên cồn đất nhà dân thì một tiếng nổ chát chúa của quả mìn Playmo vang lên. Tức thì cùng với những loạt tiểu liên AR15, trung liên, M79 (cối cá nhân) của địch trút đạn về phía anh em chúng tôi.
Tôi bị thương do mìn nhưng kịp thời nhảy xuống ruộng. Ở địa hình thấp, 4 anh em bắn trả 4 loạt AK. Lúc này pháo sáng của địch bắn lên. Biết tôi bị thương, đồng chí Chương (thê đội trưởng) kịp thời giữ tay tôi khoác qua vai anh, rồi vừa chạy vừa kéo tôi ra khỏi tầm hỏa lực của địch. Lúc này, từ đường sắt, thê đội 2 kịp thời chia lửa. Những loạt AK vang lên. Hai quả đạn B40 đã dập tắt cây trung liên hỏa lực của địch nên địch hạn chế tấn công.
Sau khoảng 30 phút chiến đấu, lực lượng của ta có 9 đồng chí trở lại tập kết tại Cồn Mồ theo phương án định trước và gần 1 giờ sau tôi và anh Chương mới về. Dù trong đêm tôi vẫn cảm nhận tiếng thì thầm mừng rỡ cùng với những cánh tay thân yêu chờ đón của anh em đồng đội. Tôi được sơ cứu, băng bó vết thương, nhưng trong đêm tối anh em thấy máu chảy ở đâu là băng ở đó. Băng hết hơn 20 cuộn băng cá nhân thì cơ bản vết thương cũng cầm được máu.
Băng vết thương xong thì điều nan giải là không có đòn cán, dù có 2 chiếc võng mang theo phòng khi có thương binh, liệt sĩ trong chiến đấu. Không có cách nào khác, súng B40 còn 2 quả đạn, chúng tôi tra vào 2 đầu súng để làm đòn cán thương binh. Hai đồng chí gánh hai đầu. Hai đồng chí đi hai bên để kéo nâng võng…Trong đêm, anh em khiêng tôi về căn cứ lúc 4 giờ sáng ngay trong ngày, tôi được chuyển lên bệnh xá tuyến trên điều trị.
Những năm dài sau đó, Tổ trinh sát an ninh chúng tôi vẫn bám trụ ở địa bàn. Ngày giải phóng miền Nam 1975, chúng tôi về thăm lại Bãi Quả. Trong đội hình năm xưa còn lại 3 anh em. Tôi, anh Phan Viết Kiên cùng đơn vị và anh Hoàng Lam-du kích xã Dinh Lộc.
Bài, ảnh: Nguyễn Văn Bòn